Quy trình giải quyết thủ tục phá sản: Bước 1: Người có quyền, nghĩa vụ chuẩn bị đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và những tài liệu, giấy tờ liên quan đến các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp. Bước 2: Nộp hồ sơ tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền để giải
Quy định Trích lập dự phòng: dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng nợ phải thu khó đòi, dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp và dự phòng rủi ro nghề nghiệp của doanh nghiệp thẩm định giá, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kiểm toán độc lập.
(Dân trí) - Chiều 22/4, TAND TPHCM mở phiên xử phúc thẩm giải quyết tranh chấp tài sản giữa ông C.K.Y. (sinh năm 1953, quốc tịch Singapore) và vợ cũ là bà C.H.L. Ông Y. tốt nghiệp tiến sĩ kỹ thuật tại Anh 36 năm trước. Ông đến Việt Nam đầu tư và làm việc từ những năm đầu mở cửa. Năm 1996, ông Y. kết hôn với bà L.
ÁN LỆ SỐ 50/2021/ALVề quyền khởi kiện vụ án đòi lại tài sản của người được giao tài sản theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luậtĐược Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2021 và được công bố theo Quyết định số 594/QĐ-CA ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chánh án
Tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội trộm cắp tài sản, nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 500.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người có hành vi trộm cắp đã bị xử phạt
vV5LD. Thưa Luật sư X, tôi có câu hỏi thắc mắc cần được Luật sư giải đáp thắc mắc như sau Cuối năm 2022, tôi và chị A có xảy ra tranh chấp đất đai. Chị A có mượn tôi một khu đất nhỏ để làm vườn trồng rau, tuy nhiên đến nay tôi muốn đòi lại do vài lý do cá nhân thì chị A không chịu trả, chị A vẫn chiếm hữu và sử dụng đất của tôi khi chưa được sự cho phép. Sau nhiều lần hòa giải tại UBND chị vẫn không đồng ý trả lại khu đất đó. Vậy, Luật sư cho tôi hỏi Kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất như thế nào? Rất mong được Luật sư hồi đáp. Tôi xin chân thành cảm ơn Luật sư. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho Luật Sư X. Để giải đáp vấn đề “Kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất như thế nào?” và cũng như nắm rõ một số thắc mắc xoay quanh câu hỏi này. Mời bạn tham khảo bài viết dưới đây của chúng tôi như sau Căn cứ pháp lý Bộ luật dân sự Việt Nam 2015 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Kiện đòi tài sản là việc là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người có hành vi chiếm hữu tài sản bất hợp pháp phải trả lại chính tài sản đó cho mình. Đòi lại tài sản là một trong những phương thức bảo vệ quyền của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Căn cứ theo Điều 164, Bộ luật dân sự Việt Nam 2015 quy định Điều 164. Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp không trái với quy định của pháp luật. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bản chất của kiện đòi tài sản là buộc người đang chiếm hữu bất hợp pháp một tài sản nào đó phải trả lại chính tài sản đó cho mình mà không bị thay thế bởi tài sản khác. Vì vậy, chỉ áp dụng các phương thức khởi kiện sau đây Vật là đối tượng kiện đòi phải là vật đặc định Vật phải còn tồn tại Người khởi kiện phải xác định được địa chỉ tồn tại của vật. Đối tượng của kiện đòi lại tài sản Theo quy định của pháp luật hiện hành thì chủ sở hữu, người chiếm hữu có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Vậy, đối tượng của kiện đòi lại tài sản chính là tài sản. Căn cứ Điều 105 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Điều 115 Bộ Luật Dân sự 2015 tiếp tục quy định “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Quyền sử dụng đất là quyền tài sản và được xác định giá trị và được phép chuyển đổi trên thị trường. Như vậy, quyền sử dụng đất được coi là một loại quyền tài sản. Loại tài sản này đặc biệt ở chỗ, nó là tài sản được xác lập trên một tài sản, và tài sản này luôn luôn gắn với một tài sản khác đó là đất đai. Chính vì coi quyền sử dụng đất là một loại tài sản nên Hiến pháp, Luật Đất đai ghi nhận chủ sử dụng đất được thực hiện các giao dịch đối với tài sản này. Do đó, có thể kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất. Các trường hợp kiện đòi tài sản Những trường hợp được áp dụng kiện đòi lại tài sản theo quy định của pháp luật hiện là Trường hợp đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình Bị đơn là người chiếm hữu không có căn pháp luật nhưng ngay tình đối với bất động sản và tài sản phải đăng ký quyền sở hữu. Kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất như thế nào? Hồ sơ kiện đòi tài sản bao gồm những giấy tờ gì? Số lượng 01 bộ hồ sơ. Thành phần hồ sơ – Thứ 1 Các loại tài liệu chứng minh nhân thân trong quá trình khởi kiện của người bị xâm phạm về tài sản chứng minh nhân dân, hộ khẩu của người khởi kiện, của các đương sự trong vụ việc và các đối tượng liên quan khác. – Thứ 2 Các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ và đúng yêu cầu pháp luật. – Thứ 3 Các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho lỗi hay sự vi phạm nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch. – Thứ 4 Bản kê khai tài liệu kèm theo đơn khởi kiện đòi tài sản. – Thứ 5 Biên lai đã nộp lệ phí hoặc tiền tạm ứng án phí theo đúng quy định pháp luật. – Thứ 6 Các tài liệu, chứng cứ để chứng minh nội dung tranh chấp khác. Đối với các tài liệu được nêu trên nếu được viết bằng tiếng nước ngoài thì trước khi nộp đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần được dịch sang tiếng Việt do các tổ chức, cơ quan có chức năng dịch thuật kèm theo bản gốc. Các bản tài liệu khác nếu được nộp bằng bản sao thì cần được xác nhận sao y bản chính theo đúng quy định. Quy trình khởi kiện đòi tài sản – Bước 1 Các chủ thể có yêu cầu nộp đơn, hồ sơ khởi kiện. – Bước 2 Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận, xử lý đơn khởi kiện. Kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện trong thời hạn ba ngày làm việc, Chánh án toà án nơi tiếp nhận đơn khởi kiện phân công một thẩm phán thực hiện xem xét nội dung đơn khởi kiện. Kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện trong thời hạn năm ngày làm việc, Thẩm phán xem xét nội dung đơn khởi kiện và đưa ra một trong số các quyết định sau đây Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục do pháp luật quy định. Chuyển đơn khởi kiện cho cơ quan Toà án có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người khởi kiện đối với trường hợp vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác. Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện trong trường hợp vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan Toà án. – Bước 3 Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra thông báo nộp tạm ứng án phí. – Bước 4 Các chủ thể có yêu cầu nộp biên lai tạm ứng án phí cho cơ quan Toà án, thẩm phán phụ trách ban hành quyết định thụ lý đối với vụ việc tới các đương sự và Viện kiểm sát. – Bước 5 Các bên đương sự đưa ra ý kiến đối với nội dung khởi kiện trong thời hạn mười năm ngày kể từ ngày các bên đương sự nhận được thông báo. – Bước 6 Quyết định đưa vụ án ra xét xử. tim viec lam, tim viec lam them, tim viec nhanh va hieu qua Lệ phí khởi kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất là bao nhiêu? Khi nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp kiện đòi lại tài sản thì đương sự phải nộp án phí, lệ phí. Mức án phí, lệ phí được xác định theo quy định của pháp luật tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể mà mức án phí sẽ khác nhau được xác định theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Mời bạn xem thêm Chuyển đổi đất nuôi trồng thủy sản sang đất ở như thế nào? Di chúc có phải là giao dịch dân sự không năm 2023? Giá bồi thường khi thu hồi đất là bao nhiêu? Khuyến nghị Với đội ngũ nhân viên là các luật sư, luật gia và chuyên viên pháp lý của Luật sư X, chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý toàn diện về vấn đề hợp đồng mua bán đất đảm bảo chuyên môn và kinh nghiệm thực tế. Ngoài tư vấn online 24/7, chúng tôi có tư vấn trực tiếp tại các trụ sở Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bắc Giang. Thông tin liên hệ Vấn đề “Kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất như thế nào?” đã được chúng tôi cung cấp qua thông tin bài viết trên. Luật sư X luôn có sự hỗ trợ nhiệt tình từ các chuyên viên tư vấn pháp lý, quý khách hàng có vướng mắc hoặc nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý liên quan như là dịch vụ coi mã số thuế cá nhân, vui lòng liên hệ đến hotline 0833102102. Chúng tôi sẽ giải quyết các khúc mắc của khách hàng, làm các dịch vụ một cách nhanh chóng, dễ dàng, thuận tiện. Câu hỏi thường gặp Phương thức kiện đòi lại tài sản được quy định như thế nào?Kiện đòi tài sản được pháp luật quy định khá rõ ràng và đầy đủ về phương thức bao gồm chủ thể có quyền, đối tượng khởi kiện, quan hệ hợp đồng giữa nguyên đơn và bị đơn…. Phương thức kiện đòi lại tài sản này cũng như các phương thức kiện đòi dân sư khác, nó đều tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp để họ có thể chủ động bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chính mình một cách nhanh chóng và thuận tiện Thời hiệu khởi kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất?Theo quy định của pháp luật dân sự hiện nay không có quy định cụ thể nào về thời hiệu khởi kiện đòi lại tài sản. Tuy nhiên, trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có đề cập đến thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, trong đó tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Vậy, có thể hiểu thời kiện khởi kiện đòi lại tài sản là vĩnh viễn, trừ trường hợp việc chiếm hữu tài sản đó đã được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản theo thời hiệu. Pháp luật quy định như vậy là để bảo vệ quyền lợi của công dân một cách tối ưu nhất. Có thể kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sổ đỏ chỉ là căn cứ xác nhận về quyền sử dụng đất của cá nhân, tổ chức. Bản thân sổ đỏ’ không phải là quyền sử dụng đất, không phải là tài đó, mặc dù “sổ đỏ” bị người khác chiếm giữ trái pháp luật, nhưng cá nhân không thể khởi kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay còn gọi là “sổ đỏ” vì “sổ đỏ” không phải là tài sản. Nếu cá nhân đã nộp đơn thì tòa án sẽ không thụ lý, vì không thuộc thẩm quyền giải chấp yêu cầu đòi lại Giấy chứng nhận chưa được quy định cụ thể là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Pháp luật hiện hành mới chỉ có hướng dẫn trong trường hợp mất “sổ đỏ”. Đối với trường hợp sổ đỏ’ bị người khác chiếm giữ bất hợp pháp thì chưa có quy định cụ nhân có thể tham khảo các quy định dưới đây trong trường hợp xin cấp lại sổ đỏ’ bị mấtVề trình tự, thủ tục xin cấp sổ đỏ’ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi bị mấtKhai báo với UBND cấp xã nơi có đất về việc bị mất sổ đỏ’UBND cấp xã yết thông báo mất sổ đỏ’ tại trụ sở, trừ trường hợp mất giấy do thiên tai, hỏa hoạnSau 30 ngày, kể từ ngày niêm yết đối với trường hợp của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư người bị mất sổ đỏ’ nộp 01 bộ hồ sơ đề nghị cấp lại sổ đỏ’Văn phòng Đăng ký nhà đất kiểm tra hồ sơ; trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với trường hợp chưa có bản đồ địa chính và chưa trích đo địa chính thửa đất; lập hồ sơ trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định luật định ký quyết định hủy sổ đỏ’ bị mất, đồng thời ký cấp lại sổ đỏ’ tức Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất …
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, đặc biệt tại các huyện Bình Xuyên, Yên Lạc, thành phố Vĩnh Yên, các vụ kiện đòi lại tài sản diễn ra với số lượng khá nhiều và đa dạng. Dưới góc độ pháp lý, kiện đòi lại tài sản là một trong ba phương thức kiện dân sự để bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015. Vậy cụ thể theo quy định của BLDS, kiện đòi tài sản là gì? Quy định của pháp luật về phương pháp kiện đòi tài sản như thế nào? Hãy cùng Luật sư Công ty Luật TNHH Youth & Partners tìm hiểu qua bài viết dưới đây. 1. Phương thức kiện đòi lại tài sản Kiện đòi lại tài sản là một phương thức kiện dân sự , theo đó chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người có hành vi chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản cho mình. Quyền đòi lại tài sản được quy định tại Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015 “1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. 2. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó”. 2. Đặc điểm của phương thức kiện đòi lại tài sản Một là, kiện đòi lại tài sản là biện pháp áp dụng trong trường hợp chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản bị mất quyền chiếm hữu đối với tài sản của mình. Hai là, người bị kiện phải là người đang thực tế chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đối với tài sản. Tài sản chỉ có thể được trả lại khi người chiếm hữu tài sản đó đang kiểm soát tài sản mà mình không có thực quyền. Ba là, đối tượng của kiện đòi lại tài sản phải là vật đang có thực, đang còn tồn tại trên thực tế. 3. Chủ thể tham gia quan hệ kiện đòi tài sản Chủ thể của phương thức kiện đòi lại tài sản bao gồm chủ thể có quyền khởi kiện nguyên đơn và chủ thể bị khởi kiện bị đơn. * Chủ thể có quyền kiện đòi tài sản Theo Điều 166 Bộ luật dân sự 2015 thì người kiện đòi lại tài sản phải là chủ sở hữu của tài sản và chứng minh quyền sở hữu của mình đối với tài sản. Người kiện đòi lại tài sản cũng có thể là người có quyền khác đối với tài sản thông qua những căn cứ xác lập quyền được pháp luật quy định. - Chủ sở hữu tài sản Để được coi là chủ sở hữu tài sản, tài sản phải được xác lập trên các căn cứ do pháp luật quy định. Tuy nhiên trên thực tế không phải chủ thể nào cũng có quyền sở hữu đối với một số loại tài sản nhất định. - Chủ thể có quyền khác đối với tài sản Quyền khác đối với tài sản được quy định tại Điều 159 Bộ luật dân sự 2015 “1. Quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác. 2. Quyền khác đối với tài sản bao gồm a Quyền đối với bất động sản liền kề; b Quyền hưởng dụng; c Quyền bề mặt”. Trên thực tế, việc nắm giữ, quản lý tài sản có thể được thực hiện bởi bất kỳ chủ thể nào, tuy nhiên, pháp luật chỉ bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể chiếm hữu nếu việc chiếm hữu đó dựa trên cơ sở pháp lý do pháp luật quy định. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc kiểm soát tài sản dựa trên các quy định của pháp luật và được quy định tại Điều 165 Bộ luật dân sự 2015. Như vậy, quyền chiếm hữu của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Khi bị xâm phạm, họ có quyền yêu cầu Tòa án xét xử để đòi tài sản từ người đang chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Khi tham gia tố tụng, người kiện đòi tài sản phải chứng minh tư cách sở hữu, chiếm hữu hợp pháp đối với vật đang bị chiếm giữ bất hợp pháp. * Chủ thể bị khởi kiện Theo Khoản 1 Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015, người bị kiện có thể là một trong những chủ thể sau người chiếm hữu, sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đối với tài sản có thể là người có hành vi trái pháp luật như trộm cắp tài sản hoặc nhặt được tài sản bị đánh rơi, bỏ quên mà không thông báo công khai, không giao nộp cho cơ quan có thẩm quyền, cũng có thể là người thứ ba đã nhận chuyển giao tài sản qua một giao dịch với người không có quyền định đoạt tài sản... Khi tài sản rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ thì người đang chiếm hữu thực tế đều phải trả lại tài sản, ngoài ra “...phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật” Khoản 1 Điều 581 Bộ luật dân sự 2015. 4. Đối tượng của kiện đòi lại tài sản Khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy định “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Tuy vậy do đặc thù của phương thức kiện đòi lại tài sản nên không phải tất cả những tài sản trên đều là đối tượng của kiện đòi lại tài sản. Vật trong kiện đòi lại tài sản chỉ bao gồm vật có thực và đang còn tồn tại trên thực tế. Vật là đối tượng của kiện đòi lại tài sản hiện còn tồn tại có thể là vẫn còn nguyên ở trạng thái ban đầu hoặc về cơ bản vẫn còn nhưng đã bị giảm sút hoặc gia tăng về giá trị. Nếu vật không còn tồn tại do đã bị mất hoặc bị tiêu hủy thì không thể áp dụng phương thức kiện đòi lại tài sản được. Tiền là đối tượng của kiện đòi lại tài sản khi chủ sở hữu biết rõ số seri của những tờ tiền đó mà hiện đang bị người khác chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Đối với trường hợp tiền đã được bao gói niêm phong mà bị người khác chiếm hữu trái pháp luật và hiện số tiền đó vẫn còn nguyên bao gói thì việc kiện đòi lại tài sản ở đây là kiện đòi lại tài sản là vật chứ không phải là tiền. Giấy tờ có giá có thể là đối tượng của kiện đòi lại tài sản. Giấy tờ có giá chính là giấy tờ minh chứng cho quyền tài sản vô danh, giá trị của giấy tờ chính là giá trị của quyền tài sản mà nó minh chứng. Quyền tài sản là loại tài sản vô hình, do vậy không thể thực hiện quyền chiếm hữu đối với loại tài sản này. Căn cứ vào đặc điểm của phương thức kiện đòi lại tài sản thì quyền tài sản không phải là đối tượng của phương thức này. 5. Các trường hợp áp dụng kiện đòi lại tài sản Trước hết, kiện đòi lại tài sản được áp dụng khi đáp ứng các điều kiện sau Thứ nhất, tài sản phải hiện còn. Thứ hai, tài sản rời khỏi chủ sở hữu không theo ý chí của họ hoặc tài sản rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của họ nhưng người thứ ba có được tài sản thông qua giao dịch với người không có quyền định đoạt tài sản. Thứ ba, phải xác định được người đang thực tế chiếm hữu tài sản. a. Kiện đòi lại tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu Khoản 2 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 chia tài sản thành động sản và bất động sản theo cách liệt kê. Tùy thuộc vào tính chất, giá trị tài sản cũng như cơ chế pháp lý điều chỉnh mà động sản được chia thành động sản phải đăng ký quyền sở hữu và động sản không phải đăng ký quyền sở hữu. Trên thực tế, đối với tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì rất khó để xác định tài sản đó thuộc về ai, nếu chúng không có các dấu hiệu đặc biệt mà chỉ riêng chủ sở hữu vật đó mới có. Do đó, khi tham gia các giao dịch dân sự, người thứ ba có thể nhận được tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người không phải là chủ sở hữu đích thực, hoặc từ người không có quyền định đoạt đối với tài sản mà không biết. Vì thế, việc chiếm hữu của người thứ ba trong trường hợp này có thể là chiếm hữu ngay tình hoặc không ngay tình. Quy định tại Điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015 điều chỉnh một cách hài hòa quyền lợi của chủ sở hữu và người chiếm hữu ngay tình, theo đó, trong các trường hợp tài sản do người lấy cắp, lừa đảo,... chiếm giữ hoặc do người chiếm hữu, sử dụng tài sản theo ý chí của chủ sở hữu thì chủ sở hữu đương nhiên có quyền đòi lại. Tuy nhiên, trong trường hợp tài sản bị chuyển giao cho người thứ ba mà người này không biết người chuyển giao tài sản đó cho mình là người không có quyền định đoạt tài sản, ở mức độ nhất định, họ được pháp luật bảo vệ. Theo đó, chủ sở hữu có quyền kiện đòi lại tài sản động sản không phải đăng ký quyền sở hữu nếu đáp ứng được một trong các điều kiện sau Thứ nhất, tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu rời khỏi chủ sở hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu như tài sản bị chiếm đoạt trái pháp luật như bị trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, tài sản bị đánh rơi, bỏ quên. Khi tài sản rời khỏi chủ sở hữu trái với ý chí của họ thì cho dù người thứ ba chiếm hữu ngay tình và có được tài sản thông qua hợp đồng có đền bù, chủ sở hữu vẫn có quyền đòi lại tài sản. Thứ hai, tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu, người đang chiếm hữu không có căn cứ pháp luật có tài sản thông qua một giao dịch không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản. Hợp đồng không có đền bù là hợp đồng mà chỉ một bên nhận được lợi ích vật chất từ bên kia và không phải thanh toán lại một lợi ích vật chất tương ứng. Trường hợp này có nghĩa là tài sản rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu thông qua một hợp đồng cho thuê, mượn, cầm cố,.. sau đó người chiếm hữu hợp pháp định đoạt tài sản đó cho người thứ ba ngay tình thông qua hợp đồng không có đền bù, chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản. b. Kiện đòi lại tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản Việc xác định chủ sở hữu của tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản tương đối dễ dàng. Vì vậy, khi tham gia các giao dịch dân sự có tính chất chuyển dịch tài sản mà tài sản được chuyển dịch là động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản thì người nhận chuyển dịch cần kiểm tra người chuyển dịch tài sản cho mình có phải là chủ sở hữu hay người được chủ sở hữu ủy quyền hợp pháp không. Ngoài ra khi hoàn tất giao dịch, người nhận chuyển dịch còn phải tiến hành các thủ tục sang tên theo quy định tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của họ mới được nhà nước công nhận và bảo hộ. Theo đó Điều 168 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định, đối với tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản thì theo nguyên tắc, người thứ ba ngay tình phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu khi bị kiện đòi, trừ trượng hợp được quy định tại Khoản 2 Điều 133 Bộ luật này. 6. Thời hiệu kiện đòi lại tài sản Kiện đòi lại tài sản là trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Do vậy, khi quyền sở hữu bị xâm phạm, chủ sở hữu bị mất quyền chiếm hữu đối với tài sản của mình thì chủ sở hữu có quyền kiện đòi lại tài sản bất cứ lúc nào mà không bị giới hạn về mặt thời gian, trừ trường hợp người chiếm hữu đó đã được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản theo thời hiệu. 7. Các trường hợp không được kiện đòi lại tài sản a. Tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu, người thứ ba chiếm hữu ngay tình thông qua hợp đồng có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản Trường hợp này được quy định tại Điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015 Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình. Nghĩa là chủ sở hữu chuyển giao chuyển giao tài sản cho người chiếm hữu hợp pháp thông qua hợp đồng cho thuê, mượn, cầm cố, đặt cọc…Sau đó người này lại định đoạt tài sản đó cho người thứ ba thông qua hợp đồng có đền bù như hợp đồng mua bán, trao đổi tài sản….mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu. Pháp luật quy định trong trường hợp này chủ sở hữu không được quyền kiện đòi lại tài sản, nhưng chủ sở hữu có quyền kiện yêu cầu người đã giao kết hợp đồng với mình phải bồi thường thiệt hại vì đây là trách nhiệm theo hợp đồng. Hay nói cách khác, tranh chấp giữa chủ sở hữu với người đã giao kết hợp đồng với chủ sở hữu sẽ được giải quyết theo quy định về hợp đồng dân sự. Người chiếm hữu được coi là ngay tình khi không biết hoặc không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật. Nếu người thứ ba chiếm hữu mà không ngay tình thì chủ sở hữu vẫn được quyền kiện đòi lại tài sản. Trong quan hệ pháp luật này, lợi ích vật chất của chủ sở hữu và người đang thực tế chiếm giữ vật là người chiếm hữu ngay tình đều được pháp luật bảo vệ một cách thỏa đáng. Quy định này nhằm yêu cầu các chủ thể khi tham gia giao dịch phải thận trọng hơn khi xác lập giao dịch, đồng thời bảo vệ lợi ích của người thứ ba ngay tình, tránh được sự thông đồng giữa chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp để gây thiệt hại cho người thứ ba, góp phần bảo đảm tính ổn định, thúc đẩy sự phát triển của các giao lưu dân sự. b. Tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động sản mà người chiếm hữu nhận được thông qua bán đấu giá Người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản thông qua bán đấu giá là người đã mua được tài sản bán đấu giá từ một cuộc bán đấu giá do tổ chức bán đấu giá thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ về bán đấu giá tài sản mà không biết và không thể biết được về nguồn gốc, tình trạng pháp lý của tài sản bán đấu giá thì người mua được coi là chiếm hữu ngay tình. Chủ sở hữu không được kiện đòi tài sản trong trường hợp này. Mặt khác, cũng theo quy định này, “trong trường hợp có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc sửa đổi một phần hoặc hủy bỏ toàn bộ các quyết định liên quan đến tài sản bán đấu giá do có vi phạm pháp luật trước khi tài sản được đưa ra bán đấu giá” nhưng trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản đó có sự vi phạm thì người thứ ba ngay tình sẽ không được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đã mua dù không biết sự vi phạm về trình tự, thủ tục của tổ chức bán đấu giá. c. Tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động sản mà người chiếm hữu nhận được thông qua giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa. Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật dân sự năm 2015 thì người thứ ba chiếm hữu ngay tình không phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu với điều kiện người thiết lập giao dịch với người là chủ sở hữu tài sản theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải là người chiếm hữu ngay tình. Người này không biết và không thể biết người thiết lập giao dịch với mình không phải là chủ sở hữu tài sản. Giao dịch được thiết lập giữa người thứ ba chiếm hữu ngay tình với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản. Do bản án, quyết định bị hủy, sửa nên người thiết lập giao dịch với người thứ ba ngay tình không còn là chủ sở hữu tài sản nữa. Những trường hợp này, các bên thiết lập giao dịch không có lỗi. Ngược lại, lỗi thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền trừ những trường hợp hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, cơ quan có lỗi phải chịu trách nhiệm theo Điều 598 Bộ luật dân sự năm 2015. d. Tài sản là đối tượng của vụ kiện đã được xác lập quyền sở hữu cho người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình theo thời hiệu Thời hiệu có ý nghĩa pháp luật quan trọng trong các quan hệ dân sự, được quy định tại Điều 149 Bộ luật dân sự năm 2015. Điều 236 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thời hiệu hưởng quyền dân sự mà cụ thể là quyền được xác lập quyền sở hữu đối với một tài sản khi đáp ứng được những điều kiện nhất định, theo đó khi quyền sở hữu của người chiếm hữu đã được xác lập thì cũng đồng nghĩa với việc chấm dứt quyền sở hữu đối với người có tài sản bị chiếm hữu. Do vậy, đối với trường hợp người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đã được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì chủ sở hữu mất quyền kiện đòi lại tài sản. Hay nói cách khác, khi tài sản là đối tượng của vụ kiện đòi lại tài sản đã được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì chủ sở hữu không còn quyền kiện đòi lại tài sản đó. Tuy nhiên, người chiếm hữu, người được lợi về tài sản chỉ được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu khi thỏa mãn các điều kiện sau Việc xác lập theo thời hiệu chỉ áp dụng đối với trường hợp người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, tức là chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Điều 165 Bộ luật dân sự năm 2015; việc chiếm hữu phải là ngay tình; việc chiếm hữu tài sản phải liên tục theo; việc chiếm hữu tài sản phải công khai; về thời gian, việc chiếm hữu tài sản phải thực hiên trong khoảng thời gian 10 năm kể từ ngày bắt đầu chiếm hữu đối với tài sản là động sản, 30 năm kể từ này chiếm hữu đối với tài sản là bất động sản. 8. Khuyến nghị của Y&P Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình, thực hiện theo thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Nếu có nhu cầu kiện đòi lại tài sản hoặc cần biết thêm thông tin về vấn đề pháp lý này, hãy liên hệ Luật sư theo địa chỉ dưới đây, Công ty Luật TNHH Youth & Partners luôn sẵn sàng đồng hành cùng khách hàng. LS Hoàng Hồng Mơ
Kiện đòi lại tài sản là một trong các phương thức bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. Vậy kiện đòi lại tài sản là gì? Pháp luật quy định thế nào về nội dung này?Kiện đòi lại tài sản là gì?Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình. Đòi lại tài sản là một trong những phương thức bảo vệ quyền của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp đòi lại tài sản được quy định tại Điều 166 Bộ luật dân sự 2015 BLDS như sau Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, đối với những tài sản đang được chiếm hữu bởi chủ thể có quyền khác đối với tài sản thì chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản yêu cầu chung trong việc đòi lại tài sảnĐối với nguyên đơnNgười kiện đòi lại tài sản phải là chủ sở hữu của tài sản và phải chứng minh quyền sở hữu của mình đối với tài sản đang bị bị đơn chiếm giữ bất hợp pháp. Nguyên đơn cũng có thể là người có quyền khác đối với tài sản thông qua những căn cứ xác lập quyền được pháp luật quy nguyên tắc chung, tài sản đang bị bị đơn chiếm giữ bất hợp pháp đã rời khỏi chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản ngoài ý chí của những người này đánh rơi, bỏ quên, bị mất cắp,.. thì chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người đang chiếm hữu bất hợp phương thức kiện này, về nguyên tắc người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người có quyền khác với tài sản. Khi lấy lại tài sản, chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản không phải bồi thường một khoản tiền nào, trừ trường hợp người chiếm hữu không ngay tình phải bỏ ra chi phí hợp lí để sửa chữa tài sản, làm tăng giá trị của tài với bị đơnBị đơn là người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật không ngay tìnhNgười bị kiện phải trả lại tài sản là người đang thực tế chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật không ngay tình như tài sản do trộm cắp, cướp, lừa đảo mà có; biết tài sản đó là của gian nhưng vẫn mua hoặc nhặt được tài sản do chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đánh rơi, bỏ quên nhưng đã không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm thì người chiếm hữu bất hợp pháp phải tra lại tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp phápTrong trường hợp người chiếm hữu, người sử dụng tài sản mà không có căn cứ pháp luật không ngay tình nhưng đã giao tài sản cho người thứ ba thì người thứ ba cũng có nghĩa vụ hoàn trả tài sản đó nếu chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có yêu cầu hoàn lại, khi tài sản rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ thì những người đang thực tế chiếm hữu vật đều phải trả lại tài sản. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 581 BLDS, ngoài việc trả lại tài sản, những người này còn phải “hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật”Xem thêm Thế nào là chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật?Bị đơn là người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật ngay tìnhNếu bị đơn là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình mà tài sản là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu như thông qua một giao dịch có đền bù mua bán và theo ý chí của người chiếm hữu có căn cứ pháp luật như người mượn, thuê,.. của chủ sở hữu. Trong trường hợp này, chủ sở hữu không được kiện đòi lại tài sản ở người đang thực tế chiếm hữu. Chủ sở hữu sẽ kiện người mình đã chuyển giao tài sản theo hợp đồng bồi thường thiệt hại vì đây là trách nhiệm theo hợp tế hiện nay việc lưu thông hàng hóa tự do và thị trường hàng hóa phong phú đa dạng và rộng lớn, người mua không thể biết được nguồn gốc tài sản, cho nên pháp luật cần phải bảo vệ họ; mặt khác, buộc những người có tài sản khi cho thuê, cho mượn, gửi giữ,.. phải có biện pháp bảo đảmNếu bị đơn là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình đối với bất động sản và tài sản phải đăng kí quyền sở hữu thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu đòi lại tài sản. Bởi vì đối với những tài sản này, người mua chỉ có quyền sở hữu khi sang tên đăng kí chuyển quyền sở hữu từ người chủ sở thực tế đang có tài sản phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu và có quyền yêu cầu người chuyển giao vật cho mình hoàn trả tiền hoặc các lợi ích vật chất mà mình bị thiệt hợp người chiếm hữu ngay tình thông qua giao dịch với chủ sở hữu theo quyết định của tòa án hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc mua thông qua bán đấu giá thi hành án nhưng sau đó những căn cứ trên không còn bị hủy, bị sửa thì người chiếm hữu ngay tình có quyền sở hữu tài sản đã mua. Những trường hợp này người mua và người bán hoàn toàn không có lỗi. Ngược lại, lỗi thuộc về cơ quan nhà nước, do vậy, cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm theo quy định về Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra Điều 598 BLDSChủ sở hữu có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại tài sản ở người mình đã chuyển giao thông qua hợp đồng dân sự. Người được chuyển giao tài sản đã lạm dụng tín nhiệm bán tài sản của người đã chuyển giao cho mình cho người thứ ba phải bồi thường thiệt hại. Người mua hoàn toàn không biết người bán là người không có quyền bán tài sản đó. Do vậy, xét về hành vi, ý thức của người thực tế chiếm hữu vật bất hợp pháp là họ không có lỗi trong việc mua bán. Luật cho phép người thứ ba ngay tình tiếp tục sử dụng tài sản đó là hợp lí và tránh được sự thông đồng giữa chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp để gây thiệt hại cho người thứ yếu tố để chủ sở hữu được lấy lại tài sảnChủ sở hữu được lấy lại tài sản khi có đủ các yếu tố sau– Tài sản rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ hoặc theo ý chí của họ nhưng người thứ ba có vật thông qua giao dịch không đèn bù cho, tặng, thừa kế theo di chúc– Người thưc tế đang chiếm giữ tài sản là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình.– Tài sản hiện đang còn trong tay người chiếm giữ bất hợp pháp.– Tài sản không là bất động sản hoặc động sản phải đăng kí quyền sở hữu, trừ trường hợp có quy định đây là nội dung Kiện đòi lại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 Lawkey gửi đến bạn đọc. Nếu có thắc mắc, vui lòng liên hệ thêm Nội dung quyền hưởng dụng theo quy đinh của pháp luậtQuyền bề mặt là gì? theo quy định của pháp luật hiện nayNội dung quyền đối với bất động sản liền kề theo quy định pháp luật
Quy định về quyền đòi lại tài sản trong Bộ luật dân sự năm 2015 so với Bộ luật dân sự năm 2005? Các điều kiện kiện đòi lại tài sản?Pháp luật luôn được coi là công cụ quan trọng và hiệu quả nhất trong quản lý xã hội hay trong việc bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể đối với tài sản. Vấn đề quyền sở hữu luôn là một vấn đề thu hút sự quan tâm không chỉ của các nhà luật học mà còn của toàn người dân trong xã hội. Hiện nay, những quy định chung về quyền sở hữu trong các văn bản pháp luật đóng vai trò chủ đạo, là cơ sở quan trọng mang tính định hướng cho các quan hệ kinh tế, các quan hệ dân sự trong đời sống. Quyền đòi lại tài sản là một chế định có ý nghĩa to lớn để bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia giao dịch dân sự. Bài viết dưới đây công ty Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu quy định về quyền đòi lại tài sản và các điều kiện kiện đòi lại tài sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí 1. Quy định về quyền đòi lại tài sản trong Bộ luật dân sự năm 2015 so với Bộ luật dân sự năm 2005 Theo Điều 166 Bộ luật dân sự 2015 đã đưa ra quy định về quyền đòi lại tài sản như sau “Điều 166. Quyền đòi lại tài sản 1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. 2. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó”. Như vậy, ta có thể hiểu một cách đơn giản theo quy định của pháp luật hiện hành thì quyền đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu cơ quan Tòa án có thẩm quyền buộc các chủ thể là người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình. Căn cứ theo khoản 1 Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015, chủ sở hữu đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, chủ sở hữu sẽ không thể đòi lại tài sản của mình. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền đối với tài sản đó theo quy định tại khoản 2 Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015. Pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu nhưng cũng đồng thời bảo vệ các chủ thể có một số quyền đối với tài sản của chủ sở hữu như quyền bề mặt, quyền hưởng dụng hay quyền đối với bất động sản liền kề. Chính bởi vì thế mà chủ sở hữu tài sản không thể đòi lại tài sản trong trường hợp này. Ta nhận thấy, Bộ luật dân sự năm 2015 ra đời đã bỏ đi những điều kiện cụ thể khi cho phép chủ sở hữu đòi lại tài sản từ chủ thể đang có quyền khác trong mọi trường hợp thay vì bị hạn chế như ở luật cũ, điều này đã góp phần bảo đảm quyền và lợi ích của chủ sở hữu của tài sản so với quy định của Bộ luật dân sự 2005. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình – Đối với động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động sản thì Điều 258 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định như sau “Chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản phải đăng kí quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa ” – Tại Bộ luật dân sự năm 2015, quy định này đã được sửa đổi như sau “Điều 168. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật này.” Theo khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015 thì đối với trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu. Vậy, ta nhận thấy, trong Bộ luật dân sự năm 2015 đã bổ sung thêm quy định đối với trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản từ giao dịch dân sự được coi là vô hiệu nhằm bảo vệ quyền lợi của họ trước pháp luật. Việc một người có được tài sản thông qua việc mua đấu giá hoặc giao dịch với người đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận là chủ sở hữu của tài sản là trường hợp mà người ngay tình hoàn toàn không có lỗi họ sẽ được pháp luật bảo vệ bởi vì trước lúc tài sản được đưa đấu giá thì sẽ có một khoảng thời gian để nơi bán đấu giá giới thiệu về sản phẩm hoặc liên tục công khai về tài sản đó; chính vì vậy, trong trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp không thể đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình mà chỉ có thể áp dụng phương thức kiện khác để bảo vệ quyền sở hữu của mình như kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật. Quy định về chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình. Để đáp ứng nhu cầu trả lại tài sản cho nguyên đơn phụ thuộc căn bản vào tính chất của việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật của bị đơn. Do đó, người ta phân biệt việc chiếm hữu này thành hai dạng Đó là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình. – Theo Điều 189 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nội dung như sau Các chủ thể là người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật. Và ngược lại được coi là không ngay tình đối với người chiếm hữu tài sản của người khác phải biết hoặc buộc phải biết sự chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật. Có thể thấy việc chiếm hữu tài sản như vậy bao hàm hai yếu tố cụ thể sau đây + Thứ nhất Yếu tố khách quan mọi sự chiếm hữu tài sản mà không phù hợp với quy định của điều 183 Bộ luật dân sự năm 2015 “Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong các trường hợp sau 1. Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản. 2. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản. 3. Người được giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật. 4. Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định. 5. Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định. 6. Các trường hợp khác do pháp luật quy định ” Nếu không đáp ứng các điều kiện trên thì đều bị coi là chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật, bất luận người chiếm hữu đó biết hay không biết các quy định trên hay không. Khái niệm này được thắt chặt tại quy định tài khoản 2 Điều 165 của Bộ luật dân sự 2015 khẳng định nội dung sau “Điều 165. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật 1. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau đây a Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; b Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản; c Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; d Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; đ Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; e Trường hợp khác do pháp luật quy định. 2. Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. 2. Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật”. + Thứ hai Yếu tố chủ quan thể hiện ở thái độ, ý thức và mức độ hiểu biết pháp luật của người chiếm hữu tài sản của người khác. Việc phân biệt chiếm hữu thành hai loại như vậy không chỉ làm cơ sở để đáp ứng hay không yêu cầu lấy lại vật của nguyên đơn mà còn để giải quyết các hậu quả liên quan. Điều 166, 167, 168 Bộ luật dân sự năm 2015 cũng đã quy định trong việc kiện đòi lại tài sản thì chủ sở hữu được lấy lại tài sản khi có đầy đủ các yếu tố sau đây – Tài sản rời khỏi chủ sở hữu hay rời khỏi người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ hoặc theo ý chí của họ như người thứ ba có vật thông qua giao dịch không đền bù. – Các chủ thể là đối tương thực tế đang chiếm giữ tài sản là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình. – Tài sản hiện đang còn trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp đối với tài sản đó. – Tài sản không còn là bất động sản hoặc động sản in phải đăng ký quyền trường hợp khác do pháp luật Việt Nam quy định. Việc kiện đòi lại tài sản có những yêu cầu cụ thể như sau – Thứ nhất là về nguyên đơn + Các chủ thể là người kiện đòi lại tài sản phải là chủ sở hữu của tài sản đó được xác lập theo những căn cứ do Bộ luật dân sự năm 2015 quy định và chủ sở hữu cũng cần có đầy đủ các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt với tài sản cũng có thể là người có quyền khác đối với tài sản thông qua những căn cứ xác lập quyền được pháp luật quy định cụ thể. + Các chủ thể là chủ sở hữu cần phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản đang bị bị đơn chiếm giữa bất hợp pháp. Cần lưu ý rằng chủ thể ở đây có thể là bất kì ai, là cá nhân hoặc tổ chức là người có thể chứng được mình có quyền sở hữu hay có quyền khác đối với tài sản đang bị bị đơn chiếm hữu bất hợp pháp theo đúng quy định pháp luật. Các chủ thể là người chiếm hữu không ngay tình và không có căn cứ pháp luật sẽ trả phải lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người có quyền khác đối với tài sản đó. – Thứ hai đối với bị đơn + Các chủ thể là người bị kiện, có thể là người đang thực tế chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật và không ngay tình như các tài sản do hành vi trộm cắp, cướp, lừa đảo mà có hay biết tài sản đó là của gian mà vẫn mua, hoặc nhặt được tài sản do chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đánh rơi, bỏ quên,… nhưng các chủ thể này lại không giao nộp cho cơ quan chức năng. + Đối với trường hợp người sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật không ngay tình nhưng đã giao tài sản cho người thứ ba thì người thứ ba cũng có nghĩa vụ hoàn trả tài sản đó nếu chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu hoàn trả. Hay nói chung lại khi tài sản rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ thì người đang thực tế chiếm hữu tài sản đó đều phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 581 Bộ luật dân sự năm 2015. + Đối với trường hợp khi bị đơn là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình mà tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu như thông qua một giao dịch có đền bù và theo ý chí của người chiếm hữu, thì chủ sở hữu sẽ không có quyền đòi lại tài sản người đang thực tế chiếm giữ mà sẽ kiện người mình đã chuyển giao tài sản theo hợp đồng vì đây là trách nhiệm theo hợp đồng đã ký trước đó giữa các bên. + Trong trường hợp khi bị đơn là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình đối với bất động sản và tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu đòi lại tài sản. Bởi vì đối với những tài sản này người mua chỉ có quyền sở hữu khi sang tên đăng ký chuyển quyền sở hữu từ người chủ sở hữu. + Còn trong trường hợp các chủ thể là người chiếm hữu không ngay tình thông qua giao dịch với người chủ sở hữu theo quyết định của cơ quan tòa án hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc mua bán thông qua bán đấu giá thi hành án nhưng sau đó những căn cứ trên không còn thì các chủ thể là người chiếm hữu ngay tình có quyền sở hữu những tài sản mà mình đã mua theo đúng quy định pháp luật hiện hành trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Kiện đòi tài sản là gì? Quy định của pháp luật dân sự về kiện đòi tài sản? Quy định của pháp luật về phương pháp kiện đòi tài sản? Khái quát chung về kiện đòi tài sản? Người khởi kiện trong kiện đòi tài sản? Nghĩa vụ nộp án phí khi khởi kiện đòi tài sản?Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài Mục lục bài viết 1 1. Kiện đòi tài sản là gì? 2 2. Quy định của pháp luật dân sự về kiện đòi tài sản 3 3. Quy định của pháp luật về phương pháp kiện đòi tài sản 4 4. Khái quát chung về kiện đòi tài sản 5 5. Người khởi kiện trong kiện đòi tài sản 6 6. Nghĩa vụ nộp án phí khi khởi kiện đòi tài sản Kiện đòi tài sản là một phương thức nhằm bảo vệ quyền sở hữu. Trong thực tế ngày nay, sự xâm phạm quyền sở hữu diễn ra rất đa dạng, dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy pháp luật đã có quy định các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, cụ thể là tại điều 255 Bộ luật dân sự 2015, theo đó “Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật” Ta có thể thấy chủ sở hữu có quyền truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu. sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật. Cũng theo Điều 225, khi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thể tự mình bảo vệ quyền sở hữu nếu có sự xâm hại, họ có thể; “…yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản” . Hay nói cách khác, kiện đòi tài sản là một phương thức bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp, được pháp luật quy định và công nhận. Trước hết, ta cần hiểu rõ khái niệm về phương thức bảo vệ quyền sở hữu này Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình, được xem như một trong những phương thức bảo vệ quyền của chủ sở hữu, nhằm đảm bảo để chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường. Điều 256 Bộ luật Dân sự quy định quyền đòi lại tài sản “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của bộ luật dân sự”… Như vậy chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, bằng nhiều cách thức, có quyền yêu cầu người đang nắm giữ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó trong trường hợp người đó đang thực tế chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật. Tài sản trong trường hợp này, ta có thể hiểu là vật bị chiếm hữu không có căn cứ pháp luật là vật đang bị bị đơn chiếm giữ bất hợp pháp, đã rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm giữ hợp pháp mà nằm ngoài ý chí của người này. Như vậy, ta có thể xác định đối tượng của kiện đòi tài sản là tài sản đang bị chiếm hữu bất hợp pháp. Tùy từng loại tài sản khác nhau mà có thời hiệu khởi kiện có thể khác nhau theo quy định của pháp luật, đó là thời hạn mà “Chủ thể được quyền khởi kiện hoặc nộp đơn yêu càu tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm…” khoản 3 Điều 155 Bộ luật dân sự 2015. Hết thời hiệu này, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không có quyền kiện đòi tài sản. Pháp luật dân sự có quy định thời hiệu khởi kiện cho từng trường hợp riêng biệt. Đối với kiện đòi tài sản, điều 256 quy định việc người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu, trừ trường hợp “ Quy định tại khoản 1 điều 247” – nghĩa là xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu phù hợp với quy định của pháp luật. Khi đã xác lập quyền sở hữu hợp pháp, có nghĩa là người đang chiếm hữu tài sản đã trở thành người sở hữu hợp pháp tài sản đó, và không phải trả lại tài sản nếu chủ sở hữu trước yêu cầu. 2. Quy định của pháp luật dân sự về kiện đòi tài sản Tóm tắt câu hỏi Kính Thưa Luật sư ! Cho tôi hỏi tôi có người anh ruột. Hiện nay, anh làm ăn thất bại, thiếu nợ nhiều tiền nhiều người, tài sản của anh trai tôi đã thế chấp ngân hàng và cầm cố hết. Ngoài ra, còn nợ mười người trên 1,5 tỷ , chín người kia không có thưa kiện mà nói với anh tôi cứ từ từ làm ăn có dư thì trả, còn một người thì kiện ra tòa án anh tôi nợ gần 300 triệu. Vậy tôi xin hỏi anh tôi không có khả năng để trả nợ cho người đó, thì anh tôi có bị án hình sự không?. Nếu như thỏa thuận tại tòa anh tôi có trả dần hàng tháng cho người đó và chín người còn lại có được không?. Nhưng hiện tại thu nhập của anh trai tôi khoảng 5 triệu, có hai đứa con nhỏ, đứa 6 tuổi và đứa 8 tuổi, vợ anh thì chỉ ở nhà nội trợ. Chi phí chi tiêu, học hành, gia đình chi tiêu khoảng 4 triệu, còn dư 1 anh tôi có chia ra trả 1 triệu trả cho 10 người đó có được không? Cám ơn Luật sư ! Luật sư tư vấn Trường hợp của anh trai bạn do không nói rõ về yếu tố hành vi của anh trai bạn cho nên chúng tôi xin chia thành hai trường hợp đó là trường hợp chỉ kiện dân sự và trường hợp sẽ bị khởi tố trách nhiệm hình sự. _ Đối với kiện dân sự trong trường hợp chỉ là giao dịch dân sự vay tiền thông thường bằng hình thức hợp đồng vay tài sản. Người vay muốn đòi được nợ quá hạn mà bên vay chưa thanh toán thì sẽ tiến hành gửi đơn khởi kiện đến Tòa án. Như vậy, căn cứ vào đó trong trường hợp của anh trai bạn, nếu anh ấy giao kết hợp đồng với các chủ nợ chỉ theo hợp đồng vay tài sản thông thường thì bên chủ nợ chỉ có thể khởi kiện dân sự, tức kiện đòi tài sản chứ không liên quan đến yếu tố hình sự trong vụ việc này. Ngoài ra, đối với vụ án dân sự mà Tòa án đã thụ lý nếu anh trai của bạn có thể thỏa thuận trả tiền hàng tháng với các chủ nợ kia thì Tòa án sẽ tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong vụ án dân sự. Bởi vì nguyên tắc của bên dân sự chính sự Nhà nước tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. _ Việc đòi nợ cũng có thể giải quyết theo con đường hình sự thông qua việc tố giác tội phạm. Tùy từng trường hợp cụ thể nếu có đủ căn cứ xác định tội phạm, người vay tiền có những hành vi đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174, Bộ Luật Hình sự hoặc tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Điều 175, Bộ Luật Hình sự 2015. Và bên cơ quan điều tra sẽ chỉ khởi tố vụ án khi đó thuộc trường hợp người vay tiền có hành vi gian dối ngay từ khi thực hiện giao dịch hoặc có hành vi lạm dụng tín nhiệm để vay tài sản hoặc vay tài sản hoặc vay tài sản sau đó tẩu tán, bỏ trốn…nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng khoản tiền vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có đủ khả năng thanh toán, có tài sản nhưng có tình không trả.. Nếu anh trai bạn có những hành vi được quy định là tội phạm theo quy định của Bộ Luật Hình sự thì anh trai bạn có thể bị khởi tố hình sự. Vì đây là những hành vi nguy hiểm cho xã hội nên dù có thỏa thuận thì hành vi vi phạm pháp luật của anh trai bạn vẫn sẽ bị cơ quan điều tra khởi tố theo đúng quy định pháp luật. 3. Quy định của pháp luật về phương pháp kiện đòi tài sản Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền buộc người có hành vi vi phạm quyền sở hữu phải trả lại tài sản cho mình. Mục đích của phương thức kiện này là chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp lấy lại được tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình . Điều kiện chung để thực hiện phương thức kiện này được quy định cụ thể như sau – Chủ thể yêu cầu nguyên đơn Phải là người chủ sở hữu, chiếm hữu hợp pháp với tài sản đó và phải chứng minh được mình là người sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp khi có yêu cầu. – Người bị kiện bị đơn Phải là người đang chiếm hữu tài sản trên thực tế không có căn cứ pháp luật không ngay tình. Điều này rất quan trọng vì nhiều trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phát hiện ra người chiêm hữu tài sản của mình lúc trước nhưng lúc này người chiếm hữu tài sản đó đã trở thành chủ sở hữu của tài sản do xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu hoặc xác lập quyền sở hữu theo các quy định khác của pháp luật. – Tài sản phải còn trong sự chiếm hữu của chủ thể chiếm hữu bất hợp pháp Nếu vì một lý do nào đó khiến tài sản bị hư hỏng, thất lạc, bị tiêu hủy … thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thể áp dụng phương thức kiện này. – Không rơi vào các trường hợp mà pháp luật quy định không phải trả lại tài sản được quy định tại các Điều 257, Điều 258 Bộ luật Dân sựBLDS T Theo qui định tại Điều 257 Bộ luật Dân sự thì “Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”. Theo đó thì chủ sở hữu chỉ đòi lại được tài sản nếu người chiếm hữu ngay tình có được động sản đó thông qua giao dịch không có đền bù với người không có quyền định đoạt đối với tài sản hoặc trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp bị người khác chiếm hữu ngoài ý muốn của chủ sở hữu. Như vậy, nếu người ngay tình có được tài sản thông qua giao dịch có đền bù và tài sản đó không phải bị mất cắp, bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu thì nguyên đơn không thể khởi kiện đòi lại tài sản. Theo quy định tại Điều 258 Bộ luật Dân sự năm 2015 “Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa”. Việc một người có tài sản thông qua việc mua bán đấu giá hoặc giao dịch với người đã được Nhà nước có thẩm quyền công nhận là chủ sở hữu của tài sản là trường hợp mà người ngay tình hoàn toàn không có lỗi họ sẽ được pháp luật bảo vệ. Chính vì vậy, trong trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp không thể kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình mà chỉ có thể áp dụng phương thức khác để bảo vệ quyền sở hữu của mình như kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. – Ưu điểm là biện pháp hiệu quả cao hơn rất nhiều so với các biện pháp dân sự khác. Khi áp dụng sẽ nhanh chóng lấy lại được tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình do được đảm bảo bằng các biện pháp quyền lực nhà nước. – Nhược điểm mất thời gian, chi phí theo kiện. Có ảnh hưởng xấu tới quan hệ giữa nguyên đơn và bị đơn. Việc bình thường hóa quan hệ này sau khi áp dụng phương thức kiện thường khó diễn ra hoặc có thì rất lâu dài. 4. Khái quát chung về kiện đòi tài sản Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình. Đòi lại tài sản là một trong những phương thức bảo vệ quyền của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Quyền đòi lại tài sản được quy định tại Điều 256 Bộ luật dân sự “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó…”. Tuy nhiên, đối với những tài sản được chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai và đã được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì không áp dụng đòi lại tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự hoặc các trường hợp quy định tại Điều 257, 258 thì không đòi lại tài sản. Điều kiện chung về kiện đòi tài sản có thể kể đến Thứ nhất, về chủ thể có quyền yêu cầu Là chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản đó như người thuê tài sản, người nhận giữ tài sản … Phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản hay nói cách khác chứng minh được quyền khởi kiện của mình. Thứ hai, người bị khởi kiện Phải là người chiếm hữu bất hợp pháp đối với tài sản . Điều kiện này rất quan trọng vì có nhiều khi chủ sở hữu , người chiếm hữu hợp pháp phát hiện ra người chiếm hữu tài sản của mình lúc trước nhưng lúc này người chiếm hữu đó lại trở thành người chủ sở hữu của tài sản do được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu điều 247, Bộ luật dân sự 2015 hoặc do đã hết quyền hưởng thời hiệu dân sự trong trường hợp nhận được tài sản đánh rơi, phát hiện gia súc, gia cầm thất lạc điều 241,242,243 Bộ luật dân sự năm 2015. Thứ ba, tài sản kiện đòi phải còn tồn tại, nếu vật là đối tượng kiện đòi , không còn tồn tại do bị tiêu hủy, hoặc bị mất thì người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không thể trả lại chính tài sản đó cho bên kiện đòi. Vì thế, trong trường hợp này phải áp dụng phương thức kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại Thứ tư, thuộc trường hợp được phép đòi lại tài sản theo quy định của pháp luật Theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp chỉ được quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nếu pháp luật có quy định. Vì vậy dù đủ 3 điều kiện trên , nhưng không thuộc trường hợp đòi lại tài sản thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp chỉ được quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. 5. Người khởi kiện trong kiện đòi tài sản Theo quy định pháp luật thì quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác được pháp luật công nhận và bảo vệ. Theo đó, Điều 256 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình thì phải trả lại tài sản đó”. Theo quy định này thì chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp là người có quyền khởi kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Chủ sở hữu là người có trong tay, người nắm giữ, quản lí tài sản được xác lập theo các căn cứ luật định và có đầy đủ các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản đó. Chủ sở hữu là người có tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình và để xác định một tài sản nào đó có phải là tài sản thuộc sở hữu của một chủ thể nhất định hay không phải dựa trên căn cứ xác lập quyền sở hữu do pháp luật quy định theo Điều 170 Bộ luật dân sự 2015. Một chủ sở hữu chỉ có quyền sở hữu tài sản nếu tài sản đó được xác lập dựa trên những căn cứ do pháp luật quy định. Tuy nhiên, trên thực tế không phải chủ sở hữu nào cũng có quyền sở hữu đối với một số loại tài sản nhất định, có những tài sản pháp luật quy định chỉ có những chủ thể nhất định mới có quyền sở hữu thì chỉ có những chủ thể này mới có quyền sở hữu tài sản đó và có những loại tài sản thì chủ thể phải đáp ứng những điều kiện nhất định mới được coi là chủ sở hữu thì chủ sở hữu phải tuân thủ theo những điều kiện đó. Người chiếm hữu hợp pháp là người được chủ sở hữu ủy quyền quản lí tài sản, hoặc là người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với ý chí của chủ sở hữu. Chủ thể chỉ có thể kiện đòi tài sản dựa trên cơ sở quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Nghĩa là các chủ thể không có quyền yêu cầu tòa án xét xử để đòi lại những tài sản mà theo quy định của pháp luật chủ thể đó không được quyền xác lập quyền sở hữu. Người khởi kiện là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc người khác như các đương sự khác nhưng việc tham gia của họ mang tính chủ động hơn vì bọn họ chính là người yêu cầu tòa án can thiệp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác mà mình làm người đại diện. Việc khởi kiện của họ là cơ sở phát sinh vụ án dân sự tại tòa án khi xác định tư cách của người khởi kiện cần chú ý không phải lúc nào người có quyền lợi bị xâm phạm nguyên đơn cũng đồng thời là người khởi kiện. 6. Nghĩa vụ nộp án phí khi khởi kiện đòi tài sản Tóm tắt câu hỏi Xin luật sư tư vấn tôi có cho một đồng nghiệp vay số tiền là 18 triệu đồng từ năm 2014 đến nay đòi nhiều lần không trả. Nay tôi gửi đơn ra tòa về việc đòi lại tiền cho vay vậy tôi có phải nộp án phí không?. trân trọng cảm ơn luật sư!? Luật sư tư vấn Theo Điều 146 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí như sau “1. Nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trong vụ án dân sự phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí. 2. Người nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự phải nộp tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự đó, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng lệ phí. Đối với yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì vợ, chồng có thể thỏa thuận về việc nộp tiền tạm ứng lệ phí, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng lệ phí theo quy định của pháp luật. Trường hợp vợ, chồng không thỏa thuận được người nộp tiền tạm ứng lệ phí thì mỗi người phải nộp một nửa tiền tạm ứng lệ phí.” Như vậy, bạn với tư cách là bên nguyên đơn thì sẽ phải nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí. Theo khoản 4 Điều 25 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 quy định nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm như sau “Người có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí trong vụ án dân sự không có giá ngạch phải nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bằng mức án phí dân sự sơ thẩm; trong vụ án dân sự có giá ngạch phải nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bằng 50% mức án phí dân sự sơ thẩm mà Tòa án dự tính theo giá trị tài sản có tranh chấp mà đương sự yêu cầu giải quyết”. Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 quy định nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm như sau “1. Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận. 2. Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận. 3. Nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận. 4. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận. 5. Bị đơn có yêu cầu phản tố phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu phản tố không được Tòa án chấp nhận. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo phần yêu cầu phản tố của bị đơn được Tòa án chấp nhận. 6. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo phần yêu cầu độc lập không được Tòa án chấp nhận. Người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo phần yêu cầu độc lập được Tòa án chấp nhận. 7. Mỗi bên đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo mức tương ứng với giá trị phần tài sản, phần di sản mà họ được hưởng, được chia trong trường hợp các bên đương sự không tự xác định được phần tài sản của mình trong khối tài sản chung, phần di sản mà mình được hưởng trong khối di sản thừa kế và có một trong các bên yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung, di sản thừa kế đó. 8. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. 9. Các đương sự trong vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp về việc chia tài sản chung của vợ chồng thì ngoài việc chịu án phí dân sự sơ thẩm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 24 của Pháp lệnh này, còn phải chịu án phí đối với phần tài sản có tranh chấp như đối với vụ án dân sự có giá ngạch tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia. 10. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng định kỳ theo quyết định của Tòa án phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch. 11. Các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí quy định. 12. Trường hợp các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm thì các đương sự vẫn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như trường hợp xét xử vụ án đó. 13. Trong vụ án có người không phải nộp hoặc được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm thì những người khác vẫn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều này.” Như vậy, khi nộp đơn khởi kiện thì bạn có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, sau khi giải quyết tranh chấp, căn cứ vào quyết định của Tòa án để xác định nghĩa vụ nộp tiền án phí của đương sự theo quy định của pháp luật.
kiện đòi tài sản