BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999" của tác giả Đinh Văn Quế - Thạc sỹ Luật học, Phó chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao, người đã nhiều năm nghiên cứu, giảng dạy và cho công bố nhiều tác phẩm bình luận khoa học về Bộ luật hình sự và cũng là người trực tiếp
Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc 4 Xem Đinh Văn Quế “ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần chung” NXB thành phố Hồ Chí Minh năm 2000. tr 125-134 (hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm) 16 đẩy người khác thực hiện hành vi chống người
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ ĐỨC THUẬN BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH HỊA BÌNH Chun ngành: Quyền người Mã số: LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS Lê Mai Thanh HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tơi xin
HLtI. Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp. Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose. ĐINH VĂN QUẾ THẠC SĨ LUẬT HỌC – TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 PHẦN CÁC TỘI PHẠM CHƯƠNG XXI CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LỜI GIỚI THIỆU Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999. Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28-12-1989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997. Bộ luật hình sự năm 1999 không chỉ thể hiện một cách toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, mà còn là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới về tội phạm và hình phạt. Do đó việc hiểu và áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm và hình phạt là một vấn đề rất quan trọng. Ngày 17 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 04/2000/CT-TTg về việc tổ chức thi hành Bộ luật hình sự đã nhấn mạnh "Công tác phổ biến, tuyên truyền Bộ luật hình sự phải được tiến hành sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức, chiến sỹ thuộc lực lượng vũ trang và trong nhân dân, làm cho mọi người năm được nội dung cơ bản của Bộ luật, nhất là những nội dung mới được sửa đổi bổ sung để nghiêm chỉnh chấp hành". Với ý nghĩa trên, tiếp theo cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần chung; cuốn "Bình luận Bộ luật hình sự phần các tội phạm tập I, tập II, tập III và tập IV Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tiếp cuốn “bình luận Bộ luật hình sự phần các tội phạm tập V- các tội phạm về chức vụ” của tác giả Đinh Văn Quế - Thạc sỹ Luật học, Phó chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao, người đã nhiều năm nghiên cứu, giảng dạy và cho công bố nhiều tác phẩm bình luận khoa học về Bộ luật hình sự và cũng là người trực tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án các tội phạm về chức vụ. Dựa vào các quy định của chương XXI Bộ luật hình sự năm 1999, so sánh với các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, đối chiếu với thực tiễn xét xử các vụ án về chức vụ, tác giả đã giải thích một cách khoa học về các các tội phạm về chức vụ quy định tại chương XXI Bộ luật hình sự, đồng thời tác giả cũng mạnh dạn nêu ra một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự ở nước ta. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. MỞ ĐẦU Bộ luật hình sự năm 1999 chia các tội phạm về chức vụ ra hai mục. Mục A là các tội phạm về tham nhũng. Mục B là các tội phạm khác về chức vụ. Mục A Chương XXI Bộ luật hình sự quy định 7 tội phạm được coi là tội tham nhũng, đó là Tội tham ô tài sản Điều 278; tội nhận hối lộ Điều 279; tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản Điều 280; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ Điều 281; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ Điều 282; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi Điều 283 và tội giả mạo trong công tác Điều 284. Mục B Chương XXI Bộ luật hình sự quy định 7 tội phạm khác về chức vụ, đó là tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng Điều 285; tội cố ý làm lộ bị mất công tác, tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tài liệu bí mật công tác Điều 286; tội vô ý làm lộ bị mất công tác, tội làm mất tài liệu bí mật công tác Điều 287; tội đào nhiệm Điều 288; tội đưa hối lộ Điều 289; tội làm môi giới hối lộ Điều 290 và tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi Điều 291. Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên cuộc đấu tranh chống tham nhũng chưa đem lại hiệu quả, tình trạng tham nhũng vẫn rất nghiêm trọng, vẫn đang là một trong những nguy cơ làm suy yếu chế độ xã hội chủ nghĩa, trực tiếp làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta. Ngoài những hành vi tham nhũng, thì đi liền với nó là những hành vi có liên quan đến tham nhũng hoặc có liên quan đến chức vụ, quyền hạn. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các tội phạm về tham nhũng, các tội phạm khác về chức vụ đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản ảnh được thực trạng công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong thời gian qua; giúp cho việc điều tra, truy tố mà đặc biệt là việc xét xử loại tội phạm này sẽ thuận lợi hơn trước đây. Tuy nhiên, do những quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về các tội phạm về tham nhũng, các tội phạm khác về chức vụ còn nhiều điểm chưa được hướng dẫn và thực tiễn xét xử nhiều trường hợp phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã gặp không ít khó khăn trong việc áp dụng Bộ luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 lại quy định thêm nhiều điểm mới hơn, nếu không được hiểu thống nhất sẽ càng khó khăn hơn trong việc áp dụng Bộ luật hình sự khi xét xử các tội phạm về tham nhũng, các tội phạm khác về chức vụ. Để góp phần tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 1999, qua thực tiễn xét xử và tổng kết công tác xét xử các tội phạm về tham nhũng, các tội phạm khác về chức vụ trong những năm qua, chúng tôi xin cung cấp cho bạn đọc những vẫn đề có tính lý luận và thực tiễn nhằm gúp bạn đọc, đặc biệt là các cán bộ công tác trong các cơ quan bảo vệ pháp luật các dấu hiệu pháp lý cơ bản đối với các tội phạm về tham nhũng, các tội phạm khác về chức vụ được quy định tại Chương XXI Bộ luật hình sự năm 1999. Phần thứ nhất MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CÁC TỘI VỀ THAM NHŨNG VÀ CÁC TỘI PHẠM KHÁC VỀ CHỨC VỤ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 Chương XXI Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội phạm về chức vụ gồm 15 Điều tương ứng với 14 tội danh khác nhau, trong đó có một điều nêu khái niệm về chức vụ. So với Chương IX phần tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 không tính điều luật quy định về hình phạt bổ sung thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nhiều hơn 3 Điều Bộ luật hình sự năm 1985 có 12 Điều, trong đó tội tham ô, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản trước đây Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tại chương các tội phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa này Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội phạm này trong chương Các tội phạm về chức vụ và tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chung trong cùng một điều luật Điều 227 nay hai tội phạm này được quy định ở hai điều luật riêng Điều 289-Tội đưa hối lộ và Điều 290-Tội làm môi giới hối lộ Chương IX Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định các tội phạm về chức vụ mà không phan biệt tội phạm nào là tội phạm về tham nhũng còn tội phạm nào là tội phạm khác về chức vụ. Do yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, ngày 26-2-1998, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh chống tham nhũng. Theo Điều 1 Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26-2-1998 thì tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tổ chức. Pháp lệnh chống tham nhũng liệt kê 11 hành vi tham nhũng được xây dựng trên cơ sở Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự ngày 10-5-1997 về các tội tham nhũng, ma tuý và các tội phạm tình dục đối với trẻ em bao gồm - Tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa; - Nhận hối lộ; - Dùng tài sản xã hội chủ nghĩa làm của hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đưa hối lộ, môi giới hối lộ; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của cá nhân; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; - Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; - lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; - Lập quỹ trái phép; - Giả mạo trong cong tác để vụ lợi. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng Bộ luật hình sự năm 1999, Ban soạn thảo đã xem xét lại những hành vi đích thực là tham nhũng thì quy định trong Mục A Chương XXI, còn lại chuyển về các chương khác cho phù hợp với tính chất của hành vi phạm tội. Để phù hợp với quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999, ngày 28-4-2000 Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh chống tham nhũng, trong đó chỉ còn quy định 7 hành vi được coi là tham nhũng bao gồm - Tham ô tài sản; - Nhận hối lộ; - Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi; - Lạm quyền trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi; - lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; - Giả mạo trong công tác để vụ lợi. Đối với các tội phạm khác về chức vụ, so với Bộ luật hình sự năm 1985 nói chung không có sửa đổi bổ sung lớn như đối với các tội phạm về tham nhũng. Tuy nhiên trong từng điều luật cụ thể, nhà làm luật quy định các tình tiết là yếu tố định tội hoặc yếu tố định khung hình phạt cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng và chónh loại tội phạm này trong giai đoạn hiện nay. Về hình phạt bổ sung đối với các tội phạm về chức vụ, đều được quy định ngay trong điều luật mà không quy định thành một điều luật riêng. - Đối với tội tham ô tài sản Điều 278, không còn quy định tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa, mà chỉ quy định tham ô tài sản. Việc thay đổi này không chỉ đơn thuần về câu chữ mà làm cho bản chất của tội tham ô cũng thay đổi, không chỉ có tài sản xã hội chủ nghĩa mới là đối tượng của tội tham ô và không chỉ những người trực tiếp quản lý tài sản xã hội chủ nghĩa mới có thể trở thành chủ thể của tội tham ô. Mức định lượng tài sản quy định là yếu tố định tội quy định tại khoản 1 điều luật theo hướng không có cho người phạm tội, nếu khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tham ô đồng mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tham ô đồng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự; thay tình tiết đã bị xử lý kỷ luật bằng tình tiết đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này; thay tình tiết vi phạm nhiều lần băng tình tiết "đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm". Các tình tiết định khung hình phạt cũng được quy định lại như thêm từ "khác" đối với tình tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt; bỏ tình tiết "có sự thông đồng với người khác"; tình tiết "có tổ chức" Điều 113 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ở khoản 3, nay Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định ở khoản 2; thêm từ "chiếm đoạt" vào các tình tiết "tài sản có giá trị..."; định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt cũng thay đổi theo hướng không có lợi cho người phạm tội từ một trăm triệu đồng đến ba trăm triệu đồng được thay bằng từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng khoản 2; từ ba trăm triệu động đến dưới năm trăm triệu đồng được thay bằng từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng khoản 3 ; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. - Đối với tội nhận hối lộ Điều 279, bổ sung tình tiết "đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm" trong trường hợp của hối lộ chưa đến đồng; thay tình tiết "biết rõ của hối lộ là tài sản xã hội chủ nghĩa" bằng tình tiết "biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước" làm cho bản chất của tình tiết này thay đổi đáng kể. Nếu của hối lộ là tài sản của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội... thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự; thêm từ "khác" đối với tình tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt; các mức tài sản là của hối lộ quy định trong các khung hình phạt cũng được quy định lại theo hướng có lợi cho người phạm tội hơn Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985 như từ mười triệu đến dưới ba mươi triệu được thay bằng từ mười triệu đến dưới năm mươi triệu khoản 2; từ ba mươi triệu đến năm mươi triệu được thay bằng từ năm mươi triệu đến dưới ba trăm triệu khoản 3; từ năm mươi triệu trở lên được thay bằng từ ba trăm triệu trở lên khoản 4. Về hình phạt bổ sung thay từ "còn bị" bằng từ "có thể" bị phạt tiền và thời gian cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định cũng nhẹ hơn so với khoản 5 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985; bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 điều này, khoản 3 điều này” quy định tại khoản 3 và khoản 4 của điều luật; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. - Đối với tội lạm dụng chức vụ chiếm đoạt tài sản Điều 280 là tội phạm được quy định tại Chương IV phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 là tội xâm phạm sở hữu, này tội phạm này được coi là tội phạm về tham nhũng và quy định tại Mục A Chương XXI Bộ luật hình sự năm 1999. Điều 280 bổ sung tình tiết "đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm" trong trường hợp giá trị tài sản bị chiếm đoạt chưa đến đồng; mức định lượng tài sản quy định là yếu tố định tội quy định tại khoản 1 điều luật theo hướng không có cho người phạm tội, nếu khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chiếm đoạt đồng mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tham chiếm đoạt đồng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự; giá trị tài sản bị chiếm đoạt quy định trong các khung hình phạt cũng được quy định lại theo hướng tăng nặng hơn so với Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 như từ một trăm triệu đến dưới ba trăm triệu được thay bằng từ năm mươi triệu đến dưới hai trăm triệu khoản 2; từ ba trăm triệu đến dưới năm trăm triệu được thay bằng từ hai trăm triệu đến dưới năm trăm triệu khoản 3; thêm từ "khác" đối với tình tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt; bỏ tình tiét "có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 điều này" ở khoản 3 và khoản 4 của điều luật; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. - Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ Điều 281 được cấu tại lại thành 3 khoản ngoài hình phạt bổ sung theo hướng nhẹ hơn Điều 221 Bộ luật hình sự năm 1985. Khoản 1 thêm loại hình phạt cải tạo không giam giữ, khoản 3 được cấu tạo theo hướng nhập khoản 3 và khoản 4 của Điều 221 có khung hình phạt từ mười năm đến mười lăm năm khoản 4 Điều 221 có khung hình phạt từ mười lăm năm đến hai mươi năm; bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết quy tại khoản 2, khoản 3 điều này"; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. - Đối với tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ Điều 282 được cấu tạo lại thành 3 khoản ngoài hình phạt bổ sung theo hướng nhẹ hơn Điều 221a Bộ luật hình sự năm 1985. Khoản 1 mức thấp nhất của khung hình phạt là một năm tù khoản 1 Điều 221a là hai năm tù, khoản 2 có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm khoản 2 Điều 221a từ bảy năm đến mười lăm năm, khoản 3 có khung hình phạt từ mười năm đến hai mươi năm khoản 3 Điều 221a từ mười lăm năm và khoản 4 tù hai mươi năm hoặc chung thân; bỏ tình tiết"có nhiều tình tiết quy tại khoản 2, khoản 3 điều này"; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. - Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi Điều 283 về cơ bản vẫn như Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985, chỉ có một số thay đổi nhỏ như bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết quy tại khoản 2, khoản 3 điều này"; thêm từ "khác” đối với tình tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt; giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác quy định là yếu tố định khung hình phạt tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của điều luật đều theo hướng có lợi cho người phạm tội hơn Điều 228a như từ mười triệu đồng đến dưới ba mươi triệu đồng được thay bằng từ mười triệu đồng đến dưới năm mười triệu đồng ở khoản 2, từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng được thay bằng từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng ở khoản 3; từ năm mươi triệu đồng trở lên được thay bằng từ ba trăm triệu đồng trở lên khoản 4; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. - Đối với tội giả mạo trong công tác Điều 284 được quy định lại theo hướng nhẹ hơn Điều 224 Bộ luật hình sự năm 1985 ở cả 4 khoản, khoản 1 của điều luật có mức cao nhất của khung hình phạt là năm năm khoản 1 Điều 224 là bảy năm, khoản 2 của điều luật có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm khoản 2 Điều 224 từ bảy năm đến mười lăm năm, khoản 3 của điều luật có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm khoản 3 Điều 224 từ mười lăm năm đến hai mươi năm, khoản 4 của điều luật có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm khoản 4 Điều 224 là hai mươi năm hoặc tù chung thân; bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết quy tại khoản 2, khoản 3 điều này", hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. Đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng Điều 285, nói chung không có gì thay đổi lớn, vẫn cấu tạo thành hai khoản ngoài khoản 3 quy định hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, khoản 1 của điều luật quy định thêm loại hình phạt cải tạo không giam giữ, khoản 2 của điều luật quy định thêm tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” là yếu tố định khung hình phạt. Đối với tội cố ý làm lộ bị mất công tác, tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tài liệu bí mật công tác Điều 286, cũng không có thay đổi lớn, ngoài việc quy định hình phạt bổ sung ngay trong điều luật thì chỉ có một thay đổi là hình phạt cải tạo không giam giữ quy định tại khoản 1 của điều luật không phải là đến một năm như khoản 1 Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985 mà là đến ba năm. Đối với tội vô ý làm lộ bị mất công tác, tội làm mất tài liệu bí mật công tác Điều 287 cũng không có thay đổi lớn, ngoài việc quy định hình phạt bổ sung ngay trong điều luật thì chỉ có một vài thay đổi, đó là bổ sung tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” là yếu tố định tội và hình phạt cải tạo không giam giữ quy định tại khoản 1 của điều luật không phải là đến một năm như khoản 1 Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985 mà là đến hai năm. Đối với tội đào nhiệm Điều 288, có một số thay đổi như Thay thuật ngữ nhân viên Nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội bằng thuật ngữ cán bộ, công chức; thay thuật ngữ rời bỏ băng thuật ngữ từ bỏ; bổ sung thuật ngữ công tác vào thuật ngữ nhiệm vụ thành nhiệm vụ công tác; hình phạt cải tạo không giam giữ quy định tại khoản 1 của điều luật không phải là đến một năm như khoản 1 Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 mà là đến hai năm; tình tiết “ phạm tội trong thời chiến” là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 được sửa lại là “phạm tội trong hàn cảnh chiến tranh”; bổ sung các tình tiết “phạm tội trong hoàn cảnh thiên tai hoặc trong những trường hợp khó khăn đặc biệt khác của xã hội; gây hậu quả rất nghiêm trọng” yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của điều luật; hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong cùng điều luật. Đối với tội đưa hối lộ Điều 289, là tội phạm được tách từ tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ quy định tại Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985. Mặc dù vậy, tội phạm này nói chung cũng không có thay đổi lớn, mà chỉ bổ sung hoặc sửa đổi một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt cũng như mức hình phạt trong khung hình phạt cho phù hợp với thực tiễn xét xử và phù hợp với một số tội phạm khác trong chương này như Nếu điểm đ khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “ dùng tài sản xã hội chủ nghĩa để dưa hối lộ” thì điểm c khoản 2 Điều 289 quy định “dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ”; Nếu điểm c khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”, thì điểm đ khoản 2 Điều 289 quy định “của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng”; Thêm từ “khác” vào sau các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt; Nếu điểm a khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự quy định “của hối lộ có giá trị ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng”, thì điểm a khoản 3 Điều 289 quy định “của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng”; Nếu điểm a khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên”, thì điểm a khoản 3 Điều 289 quy định “của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên”; Nếu khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ hai mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình; Bỏ các tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 điều này”; Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong cùng một điều luật. Đối với tội làm môi giới hối lộ Điều 290 cũng là tội phạm được tách từ tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ quy định tại Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, đối với tội phạm này, Điều 290 có những thay đổi tương đối lớn như Nếu khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ một năm tù đến sáu năm tù, thì khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ sáu tháng tù đến năm năm tù; Nếu khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định, thì điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tình tiết “biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước” là yếu tố định khung hình phạt; Nếu điểm c khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”, thì điểm đ khoản 2 Điều 290 quy định “của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng”; Thêm từ “khác” vào sau các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt ; Nếu khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 từ sáu năm tù đến mười ba năm, thì khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 từ ba năm đến mười năm; Nếu điểm a khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự quy định “của hối lộ có giá trị ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng”, thì điểm a khoản 3 Điều 290 quy định “của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng”; Nếu khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 từ mười ba năm tù đến hai mươi năm tù, thì khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 từ tám năm đến mười lăm năm; Nếu điểm a khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên”, thì điểm a khoản 3 Điều 290 quy định “của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên”; Nếu khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ mười hai năm tù đến hai mươi năm tù; Bỏ các tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 điều này”; Nếu Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định, thì k6 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự” Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong cùng một điều luật. Đối với tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi Điều 291 là tội phạm có nhiều thay đổi so với tội phạm này quy định tại Điều 228 Bộ luật hình sự năm 1985 như Nếu khoản 1 Điều 228 Bộ luật hình sự năm 1985 không định thì khoản 1 Điều 291 quy định tình tiết “ có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm” là yếu tố định tội Nếu khoản 2 Điều 228 chỉ quy định một tình tiết “phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng” là yếu tố định khung hình phạt, thì khoản 2 Điều 291 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt như “Phạm tội nhiều lần; nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác”. Hình phạt bổ sung cũng được quy định trong cùng một điều luật. PHẦN THỨ HAI CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ I- ĐẶC ĐIỂM CHUNG CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ Theo Điều 277 Bộ luật hình sự, thì các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ. Nếu căn cứ vào quy định trên thì các tội phạm về chức vụ quy định từ Điều 278 đến Điều 291 Bộ luật hình sự có một số trường hợp không thoả mãn khái niệm mà Điều 277 quy định như tội đưa hối lộ quy định tại Điều 289, tội làm môi giới hối lộ quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự, không chỉ người có chức vụ thực hiện mà còn bao gồm cả những người không có chức vụ thực hiện, mặc dù hành vi của họ cũng xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Ngoài các tội phạm quy đinh tại Chương XXI Bộ luật hình sự ra, còn nhiều tội phạm khác quy định ở các Chương khác cũng do người có chức vụ thực hiện và cũng xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, nhưng lại không phải là các tội phạm về chức vụ. Việc đưa ra một khái niệm về các tội phạm về chức vụ thật chính xác, thật đặc trưng cho loại tội phạm này về lý luận và thực tiễn vẫn còn nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quá câu lệ vào khái niệm hay định nghĩa về loại tội phạm này, vì khi đã là luật thì trước hết mọi cơ quan, tổ chức và mọi người phải tuân theo. Vấn đề quan trọng là cần hiểu và nắm chắc các dấu hiệu pháp lý đối với các tội phạm quy định tại chương XXI Bộ luật hình sự. Cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do hành vi phạm tội gây ra bao gồm các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, được gọi chung là cơ quan, tổ chức. Hành vi xâm phạm đến cơ quan, tổ chức rất đa dạng và phong phú, nhưng các tội phạm về chức vụ chỉ xâm phạm đến các hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức và cũng chỉ xâm phạm đến một số lĩnh vực chứ không phải xâm phạm hết tất cả các hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Khi nói đến các cơ quan, tổ chức là nói đến một cơ quan, tổ chức cụ thể có tên, có trụ sở được tổ chức hoặc được thành lập theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ một cách hợp pháp, chứ không phải cơ quan, tổ chức với ý nghĩa là một cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội một cách chung chung. Ví dụ Xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp X, Uỷ ban nhân dân huyện Y, Hợp tác xã vận tải Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là những hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ do pháp luật hoặc điều lệ quy định, những hoạt động này nhằm thực hiện chức năng và mục đích đã đề ra. Ví dụ Theo quy định của pháp luật thì cán bộ, công chức phải chí công, vô tư, không được lợi dụng chức vụ để trục lợi, nhưng trong cơ quan, tổ chức nào đó có cán bộ đã tham ô, nhận hối lộ, hoặc lấy tiền của cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để đưa hối lộ... là đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đó. Có thể nói, những hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do các tội phạm về chức vụ gây ra, chính là những quy định của pháp luật hoặc của điều lệ buộc phải làm mà không làm, cấm không được làm thì lại làm. Những quy định cụ thể này được thể hiện trong từng hành vi phạm tội cụ thể trong từng tội phạm về chức vụ trong chương này. Người có chức vụ quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Người do bổ nhiệm, do bầu cử có thể được coi họ là cán bộ, công chức và theo Điều 1 Pháp lệnh Công chức của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 26-2-1998, thì cán bộ, công chức gồm - Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ nhất định theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng; - Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp. Để cụ thể hoá Pháp lệnh Công chức trên, ngày 17-11-1998, Chính phủ dã ban hành Nghị định số 95-1998/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và tại Điều 1 của Nghị định quy định định Công chức bao gồm những người đã được quy định tại khoản 3 và khoản 5 Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Cụ thể là - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, làm việc trong các cơ quan Văn phòng Chủ tịch nước; Văn phòng Quốc hội; Cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Toà án nhân dân, Viện Kiểm sat nhân dân các cấp; Cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; Trường học, bệnh viện, cơ quan nghiên cứu khoa học của Nhà nước; Cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của Nhà nước; Thư viện, bảo tàng, nhà văn hoá của Nhà nước; Các tổ chức sự nghiệp khác của Nhà nước. - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp. Ngoài những cán bộ, công chức ra, những người do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, những người này tuy không phải là cán bộ, công chức, họ chỉ được các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hợp đồng làm một công việc nhất định thường xuyên hay theo thời vụ hoặc trong một thời gian nhất định. Những người này cũng được coi là người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, họ chỉ có thể thực hiện một số hành vi phạm tội nhất định. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ có thể trở thành chủ thể của các tội phạm về chức vụ khi hành vi phạm tội của hộ được thực hiện trong khi thi hành công vụ, nếu họ thực hiện hành vi phạm tội ngoài phạm vi thi hành công vụ thì không thuộc trường hợp phạm tội về chức vụ. Tuy nhiên, điều khẳng định này không bao gồm các trường hợp phạm tội có đồng phạm nhiều người tham gia, trong đó có người không thực hiện hành vi phạm tội trong phạm vi thi ành công vụ, nhưng trong một vụ án cụ thể, tội phạm mà họ thực hiện phải có người thực hiện hành vi phạm tội trong khi thi hành công vụ. Mặc dù các tội phạm về chức vụ là do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhưng không vì thế mà cho rằng trong một vụ án cụ thể chỉ có những người có chức vụ thực hiện tội phạm mà không có những người khác. Những người có chức vụ nhất thiết phải là người trực tiếp thực hiện tội phạm, nếu là vụ án có đồng phạm thì họ phải là người thực hành, còn những người khác không có chức vụ có thể là người tổ chức, người xúi dục hoặc người giúp sức. Một đặc điểm chúng ta thường thấy đối với các tội phạm về chức vụ là Tội phạm thường được thực hiện dưới hình thức đồng phạm, có vụ được thực với quy mô rất lớn, có tổ chức chặt chẽ như Vụ Tân Trường Sanh, vụ Nhà máy dệt Nam Định, vụ Tamexco, vụ Epco-Minh Phụng, vụ Mường Tè, vụ nước khoáng Kim Bôi, vụ Trịnh Vĩnh Bình ở Bà Rịa-Vũng Tàu, vụ tham ô xảy ra ở cầu Sông Hàn-Đà Nẵng, vụ Thuỷ Cung Thăng Long... Thủ đoạn phạm tội cũng ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn trước, người phạm tội mặc dù đã là người có chức vụ nhưng thường móc nối với một số cán bộ có chức, có quyền cao hơn trong các cơ quan, tổ chức kể cả các cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng để tạo dựng mối quan hệ nhằm trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Nếu trước đây tài sản bị chiếm đoạt, của hối lộ trong các vụ án tham nhũng nhiều lắm cũng chỉ một vài trăm triệu đồng, nhưng đến nay giá trị tài sản bị chiếm đoạt lên tới hàng chục tỷ đồng thậm chí hàng trăm tỷ đồng. còn giá trị của hối cũng tới hàng tỷ đồng. Những quy định của Bộ luật hình sự cũng như các hướng dẫn của các cơ quan chức năng luôn bị lạc hậu với tình hình phạm tội xảy ra. II- CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ MỤC A CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của. Tham nhũng là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự ra đời và phát triển của bộ máy Nhà nước, nó diễn ra ở tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị; tham nhũng xảy ra ở mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội; tham nhũng được coi là một căn bệnh nguy hiểm, nó gây ra tác hại nhiều mặt, cản trở sự phát triển của xã hội, thậm chí dẫn đến sự sụp đổ của cả một thể chế. Vì vậy, Đảng và Nhà nước coi tham nhung là một trong bốn nguy cơ, là mục tiêu đấu tranh để loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh trên mọi mặt trận, trong đó việc xử lý các hành vi phạm tội về tham nhũng là một việc rất quan trọng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi và từng bước loại trừ tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội nhưng cũng phải xác định rằng không thể ngày một ngày hai chúng ta có thể loại trừ tệ nạn này được, đây là cuộc đấu tranh lâu dài, gay go và quyết liệt và trong tình hình kinh tế xã hội nước ta hiện nay thì tính chất phức tạp càng gấp bội. Các tội phạm về tham nhũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến tài sản, uy tín của cơ quan, tổ chức; xâm phạm đến tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định 7 tội phạm là tội phạm về tham nhũng, đó là tội tham ô tài sản; tội nhận hối lộ; tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi và tội giả mạo trong công tác. Các tội phạm về tham nhũng quy định tại mục A chương XXI, So với các tội phạm này quy định tại chương IX Bộ luật hình sự năm 1985 có nhiều sửa đổi bổ sung. Bộ luật hình sự năm 1985 không phân biệt tội phạm tham nhũng với tội phạm về chức vụ khác mà coi tham nhũng cũng là tội phạm về chức vụ. Các yếu tố định tội và định khung hình phạt quy định tại mục A chương XXI Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có nhiều sửa đổi bổ sung theo hướng không có lợi cho người phạm tội, nhưng cũng có những quy định lại có lợi cho người phạm tội. Sau đây chúng tài sản sẽ lần lượt nghiên cứu các tội phạm cụ thể về tham nhũng. 1. TỘI THAM Ô TÀI SẢN Điều 278. Tội tham ô tài sản 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm a Gây hậu quả nghiêm trọng; b Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; c Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm a Có tổ chức; b Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; c Phạm tội nhiều lần; d Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; đ Gây hậu quả nghiêm trọng khác. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm a Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình a Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. 5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Định nghĩa Tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý Tội tham ô tài sản là tội phạm được Nhà nước ta quy định rất sớm, ngay sau khi giành được chính quyền, trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, tội tham ô tài sản được quy định tại Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 23-10-1970 và Sắc luật số 03/SL-76 ngày 15-3-1976 của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, Quốc hội cũng đã bốn lần sửa đổi bổ sung, trong đó tội tham ô quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 cũng được sửa đổi một lần vào ngày 10 tháng 5 năm 1997 có hiệu lực từ ngày 22 tháng 5 năm 1997. Vì vậy, khi nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản cần chú ý đến các thời điểm thời điểm ban hành, sửa đổi, bổ sung có liên quan đến hiệu lực về thời gian quy định tại Điều 7 Bộ luật hình sự. Theo quan niệm truyền thống, tham ô là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lấy của công làm của riêng, là việc làm xấu xa bị xã hội lên án; tham ô được coi như là một thứ bệnh hoạn, làm giảm lòng tin của nhân dân vào bộ máy Nhà nước. Tham ô Khi còn sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng “đứng về phía cán bộ mà nói; tham ô là ăn cắp của công thành của tư; đục khoét của nhân đân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung, của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình cũng là tham ô” Tham ô là một trong những hành vi tham nhũng, nhưng có thể nói cùng với hành vi nhận hối lộ, nó là hành vi chủ yếu của tham nhũng, đặc trưng điển hình của tệ tham nhũng. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Có thể nói, đối với tội tham ô các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm là các dấu hiệu quan trọng nhất để xác định hành vi phạm tội. Sự khác nhau giữa tội tham ô tài sản với các tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt cũng chính là sự khác nhau về các dấu hiệu thuộc chủ thể của tội phạm. Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội tham ô tài sản cũng phải đảm bảo các yếu tố điều kiện cần và đủ như độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội tham ô tài sản, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này Trước hết, người phạm tội tham ô phải là người có chức vụ, quyền hạn và có trách nhiệm đối với tài sản mà họ chiếm đoạt. Người có chức vụ, quyền hạn đã được nêu ở phần khái niệm các tội phạm về chức vụ. Ngoài những cán bộ, công chức ra, chủ thể của tội tham ô tài sản còn có cả những người do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, những người này tuy không phải là cán bộ, công chức, họ chỉ được các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hợp đồng làm một công việc nhất định thường xuyên hay theo thời vụ hoặc trong một thời gian nhất định có liên quan đến việc quản lý tài sản và họ có trách nhiệm quản lý đối với tài sản. Người có chức vụ, quyền hạn, phải là người có trách nhiệm quản lý tài sản, nếu họ không có trách nhiệm quản lý tài sản thì cũng không thể là chủ thể của tội tham ô tài sản được. Đây là điều kiện cần và đủ để một người có thể trở thành chủ thể của tội tham ô tài sản và cũng là dấu hiệu để phân biệt với một só tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt. Người có trách nhiệm đối với tài sản là người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản như Thủ quỹ, thủ kho, kê toán, người được giao vận chuyển tài sản của cơ quan, tổ chức hoặc đơn vị mình... Ngoài ra, còn những người tuy không được giao trực tiếp quản lý tài sản nhưng lại có trách nhiệm trong việc quyết định việc thu chi, xuất nhập, mua bán, trao đổi tài sản như Giám đốc công ty, Chủ nhiệm hợp tác xã, người đứng đầu trong các cơ quan, tổ chức là chủ tài khoản hoặc là người có quyền quyết định về tài sản của cơ quan, tổ chức mình. Việc xác định trách nhiệm của một người đối với tài sản là rất quan trọng, nếu xác định không đúng tư cách của người có trách nhiệm đối với tài sản mà họ chiếm đoạt thì dễ nhầm lẫn với các tội phạm có tính chất chiếm đoạt quy định tại Chương XVI Bộ luật hình sự như tội trộm cắp tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản... Cũng là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối nhưng nếu người thực hiện là người có trách nhiệm quản lý tài sản thì hành vi chiếm đoạt tài sản cấu thành tội tham ô, nhưng nếu người thực hiện không phải là người có trách nhiệm quản lý tài sản thì hành vi chiếm đoạt tài sản cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ Nguyễn Hùng C là Phó trưởng phòng kinh doanh thuộc Công ty vật tư tổng hợp. Trong một chuyến đi công tác, C đã khai khống thời gian lưu trú để được thanh toán khống đồng là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, cũng tương tự như vậy, nếu Nguyễn Hùng C đã tạm ứng một số tiền để đi công tác, khi về C đã khai khống thời gian lưu trú để được thanh toán khống đồng nên C không phải hoàn trả số tiền này cho phòng tài vụ thì hành vi của C lại là hành vi tham ô, vì C đã chiếm đoạt số tiền do chính mình có trách nhiệm quản lý. Cũng chính vì đặc điểm này của tội tham ô tài sản nên về lý luận cũng như thực tiễn xét xử các luật gia đã đưa ra một kết luận là Tham ô là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã trộm cắp, công nhiên, lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm... chiếm đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý. Do những đặc điểm riêng về chủ thể của tội tham ô tài sản, nên khoa học luật hình sự cho rằng, chủ thể của tội tham ô tài sản là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn mới tham ô được. Tuy nhiên, khẳng định này chỉ đúng đối với trường hợp vụ án tham ô không có đồng phạm, còn trong vụ án có đồng phạm thì có thể có cả những người không có chức vụ, quyền hạn nhưng người thực hành trong vụ án có đồng phạm, thì nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Nếu người phạm tội chỉ chiếm đoạt dưới đồng thì phải là người trước đó đã bị xử lý kỷ luật về hành vi tham ô bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn được xoá kỷ luật1, mà lại có hành vi tham ô. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý kỷ luật, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi tham ô thì cũng chưa cấu thành tội phạm này. Ví dụ Nguyễn Trung K là thủ kho Công ty vật tư nông nghiệp tỉnh P đã bị kỷ luật cảnh cáo về hành vi vi phạm kỷ luật lao động thường xuyên đi làm muộn, bỏ cơ quan không xin phép. Do bị thua bạc, nên Nguyễn Trung K đã lấy một chiếc máy bơm trị giá đồng đem bán được đồng thì bị bắt. Mặc dù Nguyễn Trung K đã bị xử lý kỷ luật, nhưng không phải là hành vi tham ô tài sản nên hành vi của K chưa cấu thành tội tham ô tài sản. Nếu người phạm tội chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới đồng nhưng đã bị két án về về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản. Đã bị kết án về tội quy định tại mục A chương này chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi tham ô tài sản, người phạm tội đã bị Toà án kết án về một trong các tội Tội tham ô tài sản Điều 278; tội nhận hối lộ Điều 279; tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản Điều 280; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ Điều 281; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ Điều 282; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi Điều 283 và tội giả mạo trong công tác Điều 284, nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác không phải là một trong 7 tội phạm trên hoặc tuy đã bị kết án về một trong 7 tội phạm trên nhưng đã được xoá án tích thì cũng chưa cấu thành tội tham ô tài sản. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án tham ô thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 2. khoản 3 và khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp tham ô quy định tại các khoản trên là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, đối với những người này họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án tham ô với vai trò giúp sức, vì những người này chưa thể trở thành cán bộ, công chức hoặc những người được giao quản lý tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng có trường hợp người dưới 16 tuổi lại là người chủ mưu, khởi xướng trong vụ án tham ô có đồng phạm. Ví dụ Trần Quốc T sinh ngày 15 tháng 1 năm 1986, đã bị nghiện ma tuý. Ngày 25-10-2001, T đến Trường phổ thông trung học cơ sở nơi mà T đã bỏ học bàn với Phạm Tuấn A là bảo vệ của nhà trường lấy linh kiện máy vi tính đem bán. Lúc đầu A chần chừ không đồng ý, sợ bị lộ, nhưng T đã vạch kế hoạch và thuyết phục A là không thể bị lộ được. A đồng ý. Khi học sinh đã tan học, A mở cửa phòng học vi tính để T vào dùng tô lô vít tháo lấy 8 ổ đĩa cứng, 15 con chuột, hai máy in và một số linh kiện có giá trị khác. Khi T mang đi tiêu thụ thì bị phát hiện bắt giữ. Trong vụ án này, A là người có trách nhiệm quản lý tài sản nhưng lại chỉ là người thực hành mở cửa phòng học vi tính còn T mới 15 tuổi 9 tháng 10 ngày lại là tên chủ mưu đồng thời cũng là người cùng với A thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội tham ô theo khoản 1 của Điều 278 Bộ luật hình sự, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội tham ô tài sản khoản 1 của điều luật là tội phạm nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Nếu trước đây, tội tham ô quy định tại Chương các tội phạm xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa Chương IV phần tội phạm, Bộ luật hình sự năm 1985, thì khách thể của tội phạm này nhất định là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa. Nay tội tham ô tài sản được quy định tại Chương các tội phạm về chức vụ thì khách thể của tội phạm không còn là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa nữa. Vậy khách thể của tội tham ô hiện nay là quan hệ xã hội nào bị xâm phạm ? Đây là vấn đề mới và cũng là vấn đề đang có nhiều ý kiến khác nhau về khách thể của tội tham ô tài sản hiện nay. Có ý kiến cho rằng, khách thể của tội tham ô vẫn là quan hệ sở hữu về tài sản của Nhà nước của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, vì nó trực tiếp xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Tuy nhà làm luật không quy định sở hữu xã hội chủ nghĩa nhưng thực chất tội phạm này chỉ xâm phạm quan hệ sở hữu. Ý kiến khác lại cho rằng, tội tham ô là tội do những người có chức vụ, quyền hạn thực hiện là tội phạm thuộc nhóm tội tham nhũng nên khách thể của tội phạm phải là những hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, còn quan hệ sở hữu chỉ là đối tượng tác động của tội phạm thông qua quan hệ sở hữu mà xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Có thể còn những ý kiến khác nhau về khách thể của tội tham ô tài sản. Tuy nhiên, khách thể của tội phạm này không còn là dấu hiệu để phân biệt tội tham ô tài sản với các tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt nên việc xác định khách thể của tội tham ô tài sản chỉ có ý nghĩa về lý luận mà không có ý nghĩa trong thực tiễn xét xử nên chúng tôi chỉ nêu những quan điểm khác nhau để tham khảo và tiếp tục nghiên cứu. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm Đối với tội tham ô tài sản, các dấu hiệu thuộc mặt khác quan cũng là những dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội tham ô tài sản với các tội phạm khác. a. Hành vi khách quan Trước hết, người phạm tội tham ô tài sản phải là người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình có để chiếm đoạt tài sản. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi chiếm đoạt tài sản đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc chiếm đoạt tài sản ; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc chiếm đoạt tài sản một cách dễ dàng. Ví dụ Nguyễn Quan L là Chánh văn phòng cơ quan T. Do cơ quan có nhu cầu phải sửa chữa trụ sở, L đã bàn bạc với Phạm Thị H kê toán trưởng, Vũ Thị M thủ quỹ sửa chữa hoá đơn, chứng từ nâng khống giá trị các hạng mục sửa chữa để chiếm đoạt đồng chia nhau, phần L được đồng, H được chia đồng và M được chia đồng. Tuy nhiên, người phạm tội có việc lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt tài sản thì mới bị coi là tham ô tài sản. Nếu hành vi chiếm đoạt tài sản do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn thì cũng không bị coi là tham ô tài sản. Ví dụ Trần Thị H là thuỷ quỹ của một Công ty X. Do chơi hụi nên H nợ nhiều người và mất khả năng thanh toán. H đã bàn với chồng là Đào Văn T dùng giấy tờ nhà thế chấp cho Công ty để vay đồng với mục đích đầu tư nuôi tôm. Vì H là thủ quỹ Công ty lại có tài sản thế chấp nên Giám đốc công ty X đồng ý cho vợ chồng H vay tiền. Sau khi vay được tiền, vợ chồng H đã trả cho các chủ nợ, đến hạn không có tiền trả cho Công ty mới phát hiện bộ hồ sơ do vợ chồng H thế chấp cho Công ty là bộ hồ sơ giả. Hành vi chiếm đoạt của H và T là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản chứ không phải là hành vi tham ô tài sản, mặc dù H là người có chức vụ, quyền hạn và cũng có trách nhiệm quản lý tài sản nhưng H đã không lợi dụng chức vụ, quyền hạn đề chiếm đoạt tài sản mà chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để Giám đốc công ty tin mà cho vợ chồng H vay tiền; chức vụ, quyền hạn của H chỉ là phương tiện để thực hiện thủ đoạn gian dối khi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Công ty. Chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý. Về trách nhiệm quản lý tài sản đã được phân tích ở các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm. Ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu thế nào là hành vi chiếm đoạt tài sản ? Chiếm đoạt tài sản là một hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản từ chủ sở hữu thành tài sản của mình hoặc của người khác mà mình quan tâm. Hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có trường hợp người phạm tội tự chuyển dịch tài sản như Thủ quỹ tự lấy tiền trong két, thủ kho tự lấy tài sản trong kho đem bán... Cũng có trường hợp việc chuyển dịch lại do người khác thực hiện theo lệnh của người phạm tội như Giám đốc lệnh cho thủ quỹ đưa tiền cho mình; kê toán lập phiếu thu, phiếu chi, chuyển khoản theo lệnh của người phạm tội. Thủ đoạn chiếm đoạt tài sản của người phạm tội tham ô hoàn toàn tương tự như thủ đoạn của người phạm tội trộm cắp tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhệm chiếm đoạt tài sản...như lén lút, công khai, gian dối, bội tín... Cũng chính vì đặc điểm này mà tội tham ô tài sản được coi là trộm cắp, công nhiên chiếm đoạt, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người có chức vụ, quyền hạn có trách nhiệm quản lý tài sản. Hiện nay, việc xác định hành vi chiếm đoạt tài sản nói chung và chiếm đoạt tài sản trong tội tham ô tài sản nói riêng trong nhiều trường hợp đã khác nhiều so với quan niệm truyền thống. Ví dụ Nếu trước đây một thủ quỹ lấy tiền trong két đem gửi tiết kiệm mang tên mình hoặc tên người khác bị coi là chiếm đoạt tài sản và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản, thì ngày nay hành vi này của Thủ quỹ chỉ là hành vi sử dụng trái phép tài sản. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhiều công ty, đơn vị đã phải chi một khoản tiền không đúng với quy định của Nhà nước. Khi chi những khoản tiền này, thông thường người phụ trách không nói lý do cho các nhân viên dưới quyền biết mục đích của việc chi tiêu và nếu có biết thì chỉ được giải thích là chi “giao dịch” hoặc “tiếp khách”. Trong các khoản chi sai nguyên tắc không ít khoản Giám đốc công ty, người đứng đầu đơn vị bỏ túi. Khi vụ án bị phát hiện, thông thường các khoản chi sai đều bị quy kết là chiếm đoạt và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản. Việc quy kết cho Giám đốc công ty hoặc người đứng đầu đơn vị chiếm đoạt toàn bộ số tiền chi sai nguyên tắc và truy cứu trách nhiệm hình sự họ về tội tham ô tài sản rõ ràng là không chính xác vì họ không chiếm đoạt số tiền đó. Vì vậy, gặp trường hợp này các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định trong các khoản tiền chi sai nguyên tắc, khoản nào người phạm tội chiếm đoạt thì mới phạm tội tham ô, còn khoản nào chi thực thì chỉ coi hành vi đó là hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu người phạm tội dùng tiền hoặc tài sản để đưa hối lộ cho người khác nhưng không có căn cứ xác định người nhận hối lộ, mới chỉ có lời khai của người đưa hối lộ thì phải coi hành vi của người “khai” đưa hối lộ là hành vi chiếm đoạt số tiền đã “khai đưa hối lộ cho người khác”. Về vấn đề này, hiện nay cũng đang có ý kiến khác nhau và việc xử lý của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng khác nhau Quan điểm thứ nhất cho rằng, cho dù không xác định được người nhận hối lộ, bời vì người nhận hối lộ nếu không có bằng chứng cụ thể thì không bao giờ họ chịu nhận, nhưng vẫn có thể xác định người “khai” đưa hối lộ là hành vi đưa hối lộ. Quan điểm thứ hai lại cho rằng, nếu lấy tiền do mình có trách nhiệm quản lý để đưa hối lộ mà không chứng minh được hành vi nhận hối lộ thì phải coi là chiếm đoạt và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản, bởi lẽ người phạm tội đã chuyển dịch bất hợp pháp tài sản từ chủ sở hữu sang người khác mà mình quan tâm. Quan điểm thứ ba lại cho rằng, chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình sự đôi với hành vi trên về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Những quan điểm khác nhau trên, cũng xuất phát từ thực tiễn xét xử đặt ra, nhưng chưa được tổng kết, hướng dẫn thống nhất. b. Hậu quả Cũng như hậu quả của các tội phạm khác, hậu quả của tội tham ô tài sản là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất cho xã hội. Đối với tội tham ô tài sản, thiệt hại trước hết là thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn có những thiệt hại khác phi vật chất. Hậu quả của tội tham ô tài sản, xét về phương diện các yếu tố cấu thành tội phạm thì không phải là dấu hiệu bắt buộc, tức là, dù hậu quả chưa xảy ra nhưng hành vi vẫn cấu thành tội phạm. Hiện nay, không chỉ đối với tội tham ô tài sản mà đối với nhiều tội phạm khác, nhà làm luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt làm ranh giới phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm, nên có quan điểm cho rằng, thiệt hại về tài sản của các tội phạm này là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nếu chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được nhưng giá trị tài sản dưới mức quy định của điều luật thì chưa cấu thành tội phạm. Đây là sự nhầm lẫn giữa hậu quả của tội phạm với thiệt hại thực tế đã xảy ra, bời vì hậu quả của tội phạm không chỉ là những thiệt hại do tội phạm đã gây ra mà còn đe doạ gây ra cho xã hội, tức là thiệt hại vật chất chưa xảy ra nhưng cũng đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đối với tội tham ô tài sản cũng vậy, nhà làm luật quy định chiếm đoạt từ đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn nếu chiếm đoạt dưới đồng thì phải có thêm những điều kiện như Gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Quy định này không có nghĩa là trong mọi trường hợp người phạm tội phải chiếm đoạt được đồng hoặc dưới đồng có kèm theo điều kiện thì mới cấu thành tội phạm, mà quy định này chỉ đối với trường hợp người phạm tội có ý định tham ô đồng hoặc dưới đồng và ngay cả với hai trường hợp này nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản thì hành vi của họ vẫn cấu thành tội phạm nhưng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Khái niệm chiếm đoạt chứa đựng nội dung của sự cố ý nên cũng có thể hiểu rằng người phạm tội có ý định chiếm đoạt. Tuy nhiên, nếu có ý định chiếm đoạt đồng hoặc dưới đồng nhưng chưa chiếm đoạt được thì hầu như người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa. 2 Tuy nhiên, hướng dẫn trên là hướng dẫn đối với các tội xâm phạm sở hữu, nhưng đối với tội tham ô cũng là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đối với tội tham ô tài sản, có thể áp dụng Thông tư liên tịch này để xác định trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đối với tội phạm này. Về Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có nhiều vấn đề cần trao đổi, nhưng dù sao đó cũng là một văn bản hướng dẫn của các cơ quan có trách nhiệm ở trung ương, nên chúng tôi không đề cập khi phân tích các dấu hiệu cấu thành các tội phạm về chức vụ. Nếu thời gian sắp tới Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an và Bộ Tư pháp ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng các quy định tại chương “các tội phạm về chức vụ” mà tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng không giống như quy định tại thông tư số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001, thì cũng không có gì là lạ và chúng ta sẽ căn cứ vào các hướng dẫn đó để xác định trường hợp tham ô gây hậu quả nghiêm 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tội tham ô cũng là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt khác, người phạm tội thực hiện hành vi của mình là cố ý cố ý trực tiếp, tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; không có trường hợp tham ô tài sản nào được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì người phạm tội bao giờ cũng mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt sản. Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội tham ô tài sản. Nếu mục đích của người phạm tội chưa đạt được chưa chiếm đoạt được tài sản, thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản, nếu mục đích đó không cấu thành một tội phạm độc lập. Ví dụ Mai Anh Th là kê toán nhà máy X, vì bị kỷ luật, nên Mai Anh Th có thù hằn với ông Đinh Khắc T là Giám đốc nhà máy. Khi ông T gợi ý với Th sửa chữa sổ sách để rút đồng chia nhau thì Th đồng ý ngay, vì Th cho rằng sau khi rút được tiền, Th sẽ tố cáo hành vi của ông T để trả thù vì việc Th bị kỷ luật. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội tham ô tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội tham ô tài sản, có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù. So với tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt, thì khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn, nhưng căn cứ vào các dấu hiệu quy định tại khoản 1 của Điều 278 thì khoản 1 Điều 278 không có lợi cho người phạm tội, vì khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chiếm đoạt đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định chiếm đoạt đồng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự và nếu so sánh tội tham ô quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 với tội tham ô quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 thì không có tội phạm nào nặng hơn tội phạm nào, nên hành vi tham ô xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985. Khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là bảy năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi mà thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 278 thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội tham ô tài sản theo khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54.4 Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới hai năm tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì - Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật; - Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ; - Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng; - Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản; tài sản bị chiếm đoạt càng nhiều, hình phạt càng nặng; - Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể. 5 2. Tham ô tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, tham ô tài sản có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án tham ô tài sản có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên phạm tội tham ô tài sản có tổ chức có những đặc điểm riêng như Người thực hành trong vụ án tham ô có tổ chức phải là người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt và thủ đoạn chiếm đoạt tài sản như Thủ quỹ lấy tiền trong két, sửa chữa sổ sách; kê toán viết phiếu thu chi khống, sửa chữa sổ sách hoặc xác nhận các phiếu thu chi khống để hợp thức hoá việc chiếm đoạt tài sản; Tham ô có tổ chức thường khó bị phát hiện, vì việc thu, chi khống đã được hợp thức hoá bằng một hệ thống sổ sách, hoá đơn chứng từ. Chỉ khi nào một trong những người đồng phạm tố giác thì sự việc mới bị phát hiện; Trong những năm gần đây, tham ô có tổ chức với quy lớn thường được tổ chức rất chặt chẽ và kèm theo hành vi tham ô là hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, đưa và nhận hối lộ. Người phạm tội tham ô tài sản và dùng tài sản chiếm đoạt được đưa hối lộ cho những người có chức, có quyền với mục đích để được bao che cho hành vi tham ô của mình, người nhận hối lộ lúc đầu chỉ là để bao che cho hành vi tham ô nhưng sau đó lại là người giúp sức hoặc chính họ lại là người khởi xướng để đồng phạm tham ô tiếp tài sản. Các vụ án tham nhũng như vụ Nhà máy dệt Nam Định, vụ Tamexco, vụ Epco-Minh Phụng, vụ Mường Tè, vụ nước khoáng Kim Bôi...phản ảnh rất rõ đặc điểm này của tham ô có tổ chức. b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiện hành vi tham ô tài sản là trường hợp người phạm tội có những mánh khoé, cách thức thâm hiểm làm cho cơ quan, tổ chức, người quản lý tài sản và những người khác khó lường trước để đề phòng như Thủ quỹ, kê toán sửa chữa sổ sách để chiếm đoạt tài sản bằng các hoá chất rất khó phát hiện hoặc sau khi đã chiếm đoạt được tài sản người phạm tội tạo hiện trường giả như phá khoá cửa tạo vụ trộm cắp giả, giả vờ bị cướp, bị cướp giật, bị trộm cắp... để che giấu hành vi tham ô của mình. Dùng thủ đoạn nguy hiểm khi thực hiện hành vi tham ô tài sản là trường hợp người phạm tội có những thủ đoạn chiếm đoạt tài sản hoặc thủ đoạn che giấu hành vi tham ô gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của con người như Thủ kho sau khi lấy tài sản trong kho do mình quản lý, đã đốt kho để phi tang; người bảo vệ hồ cá dùng hoá chất hoặc thuốc trừ sâu, diệt chuột đổ xuống ao, hồ để bắt cá chết nổi gây ô nhiễm nguồn nước sạch gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của nhiều người. c. Phạm tội nhiều lần Tham ô tài sản nhiều lần là có từ hai lần tham ô tài sản trở lên và mỗi lần tham ô tài sản đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội tham ô tài sản nhiều lần. d. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng Đây là trường hợp người phạm tội tham ô tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội khác, nếu tài sản bị chiếm đoạt không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định định giá. Mặc dù điều luật quy định chiếm đoạt tài sản, nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản, đã thực hiện thủ đoạn để chiếm đoạt có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Ví dụ Vũ Thị C là thủ quỹ công ty kinh doanh tổng hợp huyện K, do chơi số đề nên thị C đã lấy đồng trong két đem giấu vào tủ tài liệu ở cơ quan rồi tạo dựng hiện trường giả là bị mất trộm. Sau khi cơ quan công an nhận được tin Công ty K bị mất trộm đã khám xét hiện trường và phát hiện đó là hiện trường giả, nên đã đấu tranh với thị C. Thấy không thể chối cãi nên C đã nhận tội. Mặc dù Thị C chưa chiếm đoạt được số tiền đồng nhưng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, thị C còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 với tình tiết dùng thủ doạn xảo quyệt. đ. Gây hậu quả nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở khoản 1 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội tham ô từ đồng đến dưới đồng. Nếu dưới đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì đã thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật rồi. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng khác nếu do hành vi tham ô mà - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa. Việc đánh giá này hoàn toàn thuộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Khoản 1 của điều luật chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng còn điểm đ khoản 2 của điều luật lại quy định gây hậu quả nghiêm trọng khác, nên có ý kiến cho rằng hậu quả nghiêm trọng khác và hậu quả nghiêm trọng không phải là một. Đây là vấn đề có thể có những quan điểm khác nhau, vì về lý luận cũng như thực tiễn xét xử chưa có trường hợp nào cần phải phân biệt giữa hậu quả nghiêm trọng với hậu quả nghiêm trọng khác. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội tham ô tài sản cũng chỉ quy định hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng mà chưa quy định hậu quả nghiêm trọng khác. Tuy nhiên, khi nói hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô gây ra và hậu quả nghiêm trọng khác do hành vi tham ô gây ra cũng có thể hiểu được rằng, hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô gây ra là những thiệt hại trực tiếp do chính hành vi phạm tội cũng như thủ đoạn thực hiện tội phạm gây ra như giá trị tài sản bị chiếm, còn hậu quả nghiêm trọng khác do hành vi tham ô gây ra là những thiệt hại gián tiếp do việc thực hiện tội phạm gây ra như do tham ô tài sản nên gây ra sự nghi ngờ nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng, do tham ô tài sản nên không thực hiện được chính sách đối với thương binh và gia đình liệt sỹ. Nếu sự phân biệt trên là có căn cứ thì khoản 1 của điều luật quy định hậu quả nghiêm trọng cũng khó xác định ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt, thì các thiệt hại khác đều là những thiệt hại gián tiếp do hành vi phạm tội gây ra và nó chỉ là hậu quả khác. Do đó có ý kiến cho rằng, khoản 1 điều luật cũng nên quy định gây hậu quả khác mới chính xác. Quan điểm này cũng có cơ sở lý luận và thực tiễn. Hy vọng rằng khi có điều kiện, nhà làm luật sẽ nghiên cứu sửa đổi để phù hợp hơn. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 278 có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội, mặc dù khung hình phạt ở khoản 2 Điều 133 và khoản 2 Điều 278 như nhau từ bảy năm đến mười lăm năm. Vì vậy, khi áp dụng khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý một số điểm sau Nếu hành vi tham ô có sự thông đồng với người khác xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 2 Điều 133 hay khoản 2 Điều 278 mà áp dụng khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985; Nếu hành vi tham ô có tổ chức xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 mà áp dụng khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999; Nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ đồng đến dưới đồng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì vẫn áp dụng khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985; Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội tham ô tài sản theo khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự, Toà án cũng cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới hai năm tù vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự . Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 278 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự. 6 3. Tham ô tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Cũng như các trường hợp khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định định giá. Cũng như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2, điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện thủ đoạn chiếm đoạt số tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ Trường hợp phạm tội này hậu quả khác do hành vi tham ô gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội tham ô gây ra. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra Làm chết hai người; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm trọng. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội, mặc dù khung hình phạt ở khoản 3 Điều 133 và khoản 3 Điều 278 như nhau từ mười lăm năm đến hai mươi năm tù. Vì vậy, khi áp dụng khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý một số điểm sau Nếu hành vi tham ô có tổ chức xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 mà áp dụng khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999; Nếu hành vi tham ô có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 278 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 và cũng không áp dụng khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985; Nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ đồng đến dưới đồng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì vẫn áp dụng khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985; Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội tham ô tài sản theo khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới mười lăm năm tù nhưng không được dưới bảy năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự . Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 278 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự. 7 4. Tham ô tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên. Cũng như các trường hợp khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định định giá. Cũng như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 và và điểm a khoản 3, điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm trăm triệu đồng trở lên mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện thủ đoạn chiếm đoạt số tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng khác quy định tại điểm đ khoản 2 và gây hậu quả rất nghiêm trọng khác tại điểm b khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ Trường hợp phạm tội này hậu quả khác do hành vi tham ô gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội tham ô gây ra. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra là những thiệt đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi tham ô tài sản gây ra Làm chết ba người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm trọng. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ xét về hình phạt thì khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì mức thấp nhất của khung hình phạt là hai mươi năm tù và khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 điều này”. Vì vậy, khi áp dụng khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý một số điểm sau Nếu hành vi tham ô có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều 278 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 và cũng không áp dụng khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985; Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội tham ô tài sản theo khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới hai mươi năm tù nhưng không được dưới mười lăm năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 4 là khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự . Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 278 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình Do điều luật quy định khung hình phạt có ba mức khác nhau và để việc áp dụng thống nhất pháp luật Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15-3-2001 dẫn áp dụng một số quy định của các Điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 Bộ luật hình sự. Theo hướng dẫn này thì Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và không có tình tiết giảm nhẹ hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, nhưng đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ tương đương nhau thì xử phạt người phạm tội mức án tương ứng với giá trị tài sản bị chiếm đoạt như sau - Xử phạt hai mươi năm tù nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng; - Xử phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một tỷ đồng đến dưới ba tỷ đồng; - Xử phạt tử hình nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ ba tỷ đồng trở lên. Trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn, đồng thời đánh giá tính chất giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nhẹ hơn, cụ thể như sau - Xử phạt tù từ mười lăm năm đến dưới hai mươi năm nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng trường hợp này phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; - Xử phạt hai mươi năm tù nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một tỷ đồng đến dưới ba tỷ đồng; - Xử phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ ba tỷ đồng trở lên. Trong trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng mà không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn, đồng thời đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ xét thấy cần tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì có thể phạt người phạm tội mức hình phạt nặng hơn mức hình phạt được hướng dẫn trên, cụ thể như sau - Xử phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng; - Xử phạt tử hình nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một tỷ đồng trở lên. Trong trường hợp theo hướng dẫn thì người phạm tội phải bị xử phạt tử hình, nhưng người phạm tội đã bồi thường được một phần đáng kể giá trị tài sản bị chiếm đoạt hoặc người thân thích, ruột thịt... của người phạm tội đã bồi thường thay cho người phạm tội thì có thể không xử phạt tử hình người phạm tội và tuỳ vào số tiền đã bồi thường được mà có thể xử phạt người phạm tội tù chung thân hoặc tù có thời hạn. Được coi là đã bồi thường được một phần đáng kể giá trị tài sản bị chiếm đoạt nếu - Đã bồi thường được ít nhất một phần hai giá trị tài sản bị chiếm đoạt; - Đã bồi thường được từ một phần ba đến dưới một phần hai giá trị tài sản bị chiếm đoạt, nếu có căn cứ chứng minh rằng người phạm tội hoặc người thân thích, ruột thịt... của người phạm tội đã thực hiện mọi biện pháp để bồi thường giá trị tài sản bị chiếm đoạt đã bán hết nhà ở, tài sản có giá trị; cố gắng vay, mượn... đến mức tối đa. 5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội tham ô tài sản Theo quy định tại khoản 5 Điều 278 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội tham ô tài sản còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. So với tội tham ô tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội tham ô tài sản quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi bổ sung như sau Nếu Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định quản lý tài sản xã hội chủ nghĩa từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 5 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội tham ô trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 5 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Nếu Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị phạt tiền đến ba mươi triệu đồng và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, thì khoản 5 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội tham ô trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không được áp dụng khoản 5 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 mà phải áp dụng Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới mười triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng. 2. TỘI NHẬN HỐI LỘ Điều 279. Tội nhận hối lộ 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm a Gây hậu quả nghiêm trọng; b Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; c Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm a Có tổ chức; b Lạm dụng chức vụ, quyền hạn; c Phạm tội nhiều lần; d Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước; đ Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt; e Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; g Gây hậu quả nghiêm trọng khác. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm a Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng; b Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình a Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên; b Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. 5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Định Nghĩa Nhận hối lộ là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Cùng với tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ cũng được Nhà nước ta quy định từ rất sớm ngay sau khi giành được chính quyền. Điều 1 Sắc lệnh số 223-SL ngày 17-11-1946 quy định Công chức nhận hối lộ bị phpha tù từ 5 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật hối lộ. Tang vật hối lộ bị tịch thu sung công. Người phạm tội còn có thể bị tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản. Tuy nhiên, tệ hối lộ lại chỉ phát triển trong những gia đoạn nhất định. Nếu trong thời kỳ đất nước tập trung cho hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thì tệ tham ô, hối lộ, tính chất, mức độ chưa nghiêm trọng như trong giai đoạn hiện nay khi mà Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng chính vì vậy, sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, cùng với nhiều tội phạm khác, Điều 226 quy định về tội nhận hối lộ được sửa đổi, bổ sung tới ba lần Lần thứ nhất vào ngày 12-8-1991, lần thức hai vào ngày 22-12-1992 và lần thứa ba vào ngày 10-5-1997. Mặc dù đã sau ba lần sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phong chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay. Nhiều trường hợp nhận hối lộ rất nghiêm trọng thậm chí đặc biệt nghiêm trọng, nhưng do có quan điểm khác nhau về đánh giá chứng cứ hoặc, về xác định các tình tiết của vụ án, về các dấu hiệu cấu thành tội nhận hối lộ, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự, để lọt tội phạm. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Cũng như tội tham ô, đối với tội nhận hối lộ, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm là các dấu hiệu quan trọng nhất để xác định hành vi phạm tội, là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội hối lộ với các tội phạm khác do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội nhận hối lộ cũng phải đảm bảo các yếu tố điều kiện cần và đủ như độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội nhận hối lộ, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này Trước hết, người phạm tội nhận hối lộ phải là người có chức vụ, quyền hạn, nhưng lại không giống như người có chức vụ, quyền hạn trong tội tham ô tài sản. Nếu người có chức vụ, quyền phạm tội tham ô tài sản phải là người có liên quan đến việc quản lý tài sản, thì người có chức vụ, quyền hạn phạm tội nhận hối lộ không nhất thiết phải là người có trách nhiệm quản lý tài sản. Phạm vi chức vụ, quyền hạn của người phạm tội nhận hối lộ rộng hơn. Tuy nhiên, người phạm tội nhận hối lộ lại không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý mà là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Người có chức vụ, quyền hạn là người đã được nêu ở phần khái niệm các tội phạm về chức vụ. Tuy nhiên, đối với chủ thể của tội nhận hối lộ có tổ chức, ngoài những người có chức vụ, quyền hạn còn có thể có những người không có chức vụ, quyền hạn là chủ thể của tội phạm nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi dục, người giúp sức còn người thực hành nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn, phải là người có trách nhiệm trong việc giải quyết những yêu cầu của người đưa hối lộ. Những yêu cầu đó có thể là yêu cầu về lợi ích vật chất hoặc phi vật chất của người đưa hối lộ. Tuy nhiên, người có chức vụ, quyền hạn khi giải quyết những yêu cầu của người đưa hối lộ phải là việc thực hiện công vụ. Nếu có chức vụ, quyền hạn khi giải quyết yêu cầu cho người khác để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất của họ, nhưng không phải là thực hiện cong vụ thì không phải là nhận hối lộ. Ví dụ Anh Nguyễn Trọng L là Giảng viên của Trường đại học GT , Ký hợp đồng với Công ty trách nhiệm hữu hạn vẽ thiết kế cho một công trình năm trong dự án phát triển miền núi. Do muốn thay đổi thiết kế, nên bên B đơn vị thi công đề nghị anh L vẽ lại thiết kế, anh L nhận lời và đề nghị phải được sự đồng ý của bên A và Công ty trách nhiệm hữu hạn vì anh chỉ là người thực hiện hợp đồng. Để việc thay đổi thít kế nhanh chóng, một số cán bộ bên B đã đưa cho anh L nhiều lần với tổng số tiền gần đồng. Trong trường hợp này, nếu xét về mối quan hệ giữa anh L với đơn vị thi công là mối quan hệ giữa người giải quyết yêu cầu với người yêu cầu, anh L cũng là người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong việc giải quyết yêu cầu cho bên B, nhưng việc anh L giải quyết yêu cầu cho bên B không phải là thi hành công vụ mà là thực hiện một nhiệm vụ tư, vì hoạt động của Công ty trách nhiệm hữu hạn không phải là thi hành công vụ. Do đó, việc anh L nhận tiền của bên B và hứa sẽ giải quyết là sai nhưng không phải là hành vi nhận hói lộ. Cũng hành vi này nhưng nếu anh L thực hiện nhiệm vụ do Ban giám hiệu nhà trường giao thì hành vi của anh L lại là hành vi nhận hối lộ. Vì vậy, việc xác định tư cách chủ thể của tội nhận hối lộ là rất quan trọng. Người có trách nhiệm đối với việc giải quyết yêu cầu của người đưa hối lộ là người được giao nhiệm vụ và do nhiệm vụ đó mà họ quyền đối với việc giải quyết yêu cầu của người khác. Những người này, muốn xác định chỉ cần căn cứ vào Điều 1 Pháp lệnh cán bộ công chức và Nghị định số 95-1998/NĐ-CP ngày 17-11-1998 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức như đã phân tích ở phần thứ nhất. Việc xác định trách nhiệm của một người đối với việc giải quyết yêu cầu của người đưa hối lộ là rất quan trọng, vì trong thực tế không ít trường hợp người đưa hối lộ cứ tưởng rằng người mà mình đưa hối lộ là người có trách nhiệm giải quyết được yêu cầu của mình. Ví dụ Phạm Thanh B là thư ký phiên toà, biết được chủ trương của Hội đồng xét xử là sẽ cho bị cáo Phạm Quốc Đ được hưởng án treo, nên B đã tìm gặp Đ và gợi ý rằng, B có quan hệ thân thiết với vị Thẩm phán chủ toạ phiên toà, có thể xin cho Đ được hưởng án treo. Đ tin là B nói thật nên đã đưa cho B đồng và nhờ B lo giúp, xong việc sẽ hậu tạ thêm. Sau khi nhận tièn của Đ, B không hề có tác động nào với chủ toạ phiên toà và tin rằng Đ sẽ được hưởng án treo, nhưng tại phiên toà, do có những tình tiết khác với hồ sơ vụ án, nên Hội đồng quyết định phạt Phạm Quốc Đ hai năm tù giam. Vì không đáp ứng được yêu cầu, nên Phạm Quốc Đ đã tố cáo hành vi nhận hối lộ của Phạm Thanh B. Trong vụ án này, đúng là B là người có chức vụ quyền hạn, nhưng không phải là người có trách nhiệm giải quyết yêu cầu của Đ, nhưng Đ lại tưởng lầm là B có trách nhiệm giải quyết yêu cầu của mình nên đưa hối lộ cho B. Hành vi của Đ là hành vi đưa hối lộ, nhưng hành vi của B lại là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản chứ không phải là hành vi nhận hối lộ. Cũng như chủ thể của tội tham ô tài sản, chủ thể của tội nhận hối lộ là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn mới nhận hối lộ được. Tuy nhiên, khẳng định này chỉ đúng đối với trường hợp vụ án nhận hối lộ không có đồng phạm, còn trong vụ án có đồng phạm thì có thể có cả những người không có chức vụ, quyền hạn nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi dục, người giúp sức, còn người thực hành trong vụ án có đồng phạm, thì nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Tương tự như đối với tội tham ô tài sản, nếu người phạm tội chỉ nhận hối lộ dưới đồng thì phải là người trước đó đã bị xử lý kỷ luật về hành vi nhận hối lộ bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn được xoá kỷ luật, nay lại có hành vi nhận hối lộ. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý kỷ luật, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi nhận hối lộ thì cũng chưa cấu thành tội phạm này. Ví dụ Đặng Văn H là cán bộ tín dụng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đã bị xử lý kỷ luật cảnh cáo về hành vi thiếu trách nhiệm trong việc thẩm định tài sản thế chấp nên Ngân hàng đã cho vay không đúng với quy định. Trong thời gian chưa quá một năm kẻ từ ngày có quyết định kỷ luật, Đặng Văn H lại nhận hối lộ đồng của Bùi Văn Q để xác nhận không đúng giá trị tài sản thế chấp để Bùi Văn Q được vay đồng của Ngân hàng. Mặc dù Đặng Văn H đã bị xử lý kỷ luật, nhưng không phải do hành vi nhận hối lộ mà là do hành vi thiếu trách nhiệm nên hành vi nhận hối lộ đồng của H chưa cấu thành tội phạm. Nếu người phạm tội nhận hối lộ có giá trị dưới đồng nhưng đã bị két án về về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì hành vi nhận hối lộ đã cấu thành tội phạm và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ. Đã bị kết án về tội quy định tại mục A chương này chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi nhận hối lộ, người phạm tội đã bị Toà án kết án về một trong các tội Tội tham ô tài sản Điều 278; tội nhận hối lộ Điều 279; tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản Điều 280; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ Điều 281; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ Điều 282; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi Điều 283 và tội giả mạo trong công tác Điều 284, nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác không phải là một trong 7 tội phạm trên hoặc tuy đã bị kết án về một trong 7 tội phạm trên nhưng đã được xoá án tích thì cũng chưa cấu thành tội nhận hối lộ. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2. khoản 3 và khoản 4 Điều 279 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp nhận hối lộ quy định tại các khoản trên là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, đối với những người này họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án nhận hối lộ với vai trò giúp sức, vì những người này chưa thể trở thành cán bộ, công chức. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng có trường hợp người dưới 16 tuổi lại là người chủ mưu, khởi xướng, giúp sức trong vụ án nhận hối lộ có đồng phạm như Được người có chức vụ, quyền hạn giao cho đi nhận tiền của người đưa hối lộ, được giao đưa thư, đưa tài liệu... Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ theo khoản 1 của Điều 279 Bộ luật hình sự, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội nhận hối lộ quy định tại khoản 1 của điều luật là tội phạm nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Có thể xác định được ngay khách thể của tội nhận hối lộ là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, cao hơn là chính thể bị sụp đổ. Vì vậy, hối lộ cùng với tham ô được Đảng và Nhà nước ta coi là quốc nạn, phải đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi. Hầu hết hành vi nhận hối lộ của người có chức vụ, quyền hạn là làm trái công vụ được giao, gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên, cá biệt có trường hợp người có chức vụ, quyền hạn nhận hối lộ nhưng vẫn làm đúng chức năng nhiệm vụ, nhưng cho dù có làm đúng đi nữa thì hành vi nhận hối lộ của họ cũng đã xâm phạm đến uy tín của cơ quan, tổ chức mà họ là thành viên. Ví dụ theo quy định của pháp luật thì Nguyễn Văn D có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà cho bà Lê Thị H, nhưng D vẫn sách nhiễu đòi bà H phải đưa cho D số tiền đồng thì D mới cấp giấy cho bà H. Cho dù việc làm của D là đúng pháp luật, nhưng uy tín của cơ quan mà D là thanh viên bị mang tiếng là cái gì cũng phải có tiền mới xong. Tình trạng này hiện nay ở nước ta khá phổ biến, nhất là đối với các cơ quan, tổ chức có quyền “cho”, khi người khác có nhu cầu “xin”. Tạo ra tâm lý là cái gì cũng phải có tiền mới xong. Vì vậy, dù người chức vụ, quyền hạn giải quyết đúng pháp luật nhưng nhận hối lộ để giải quyết theo yêu cầu của người đưa hối lộ thì hành vi nhận hối lộ vẫn xâm phạm đến sự hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức. Đối tượng tác động của tội nhận hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Về tiền hoặc tài sản không có gì cần trao đổi nhưng đối với lợi ích vật chất khác thì có nhiều ý kiến khác nhau Có ý kiến cho rằng, điều luật quy định lợi ích vật chất khác là không cần thiết. Bởi lẽ, ngoài tiền hoặc tài sản ra thì khó có thể xác định được lợi ích vật chất khác là gì, vì đã là lợi ích vật chất thì chỉ tồn tại dưới hai dạng tiền hoặc tài sản, không có cái gọi là lợi ích vật chất phi tài sản, ngoài tài sản và tiền bạc ra không thể xác định lợi ích vật chất nào khác. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp người nhận hối lộ không nhận tiền hoặc tài sản, nhưng cái mà họ được người đưa hối lộ lại là một lợi ích vật chất, nhưng lợi ích này không tính ra tiền được hoặc chưa tính ra được bằng tiền. Ví dụ Hứa cho hưởng hoa lợi, hưởng lãi suất cao, hứa cho đi du học các lợi ích này tuy là lợi ích vật chất nhưng lại không tính ra được bằng một số tiền cụ thể, có cũng không tồn tại dưới dạng tài sản cụ thể. Chính vì vậy, nhà làm luật quy định lợi ích vật chất khác cũng là để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm Đối với tội nhận hối lộ, các dấu hiệu thuộc mặt khác quan cũng là những dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội nhận hối lộ với các tội phạm khác. a. Hành vi khách quan Trước hết, cũng tương tự như tội tham ô tài sản, người phạm tội nhận hối lộ phải là người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình. Nếu ở tội tham ô tài sản, hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn là để chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý, thì ở tội nhận hối lộ người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ. Có thể nói thủ đoạn của hai tội phạm này như nhau chỉ khác nhau ở mục đích thực hiện hành vi. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ. Ví dụ Lý Công C là cán bộ tổ chức cơ quan X đã lợi dụng việc được Cơ quan giao cho nhiệm vụ tìm người thay một cán bộ sắp nghỉ hưu. Do nhu cầu hợp lý hoá gia đình, nên chị Nguyễn Thị M đang công tác ở Quảng Ninh có nguyện vọng xin về Hà Nội công tác, mặc dù chị M không đủ điều kiện vào cơ quan vì chưa có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành, nhưng C vẫn hứa với chị M là lo được. Chị M đã đưa cho C 5 chỉ vàng và hứa khi nào xong việc sẽ đưa nột cho C 5 chỉ vàng nữa. Sau khi nhận vàng của chị M, C đã báo cáo lãnh đạo cơ quan là chị C có đủ điều kiện, nên thủ trưởng cơ quan đã ra quyết định tiếp nhận chị M về cơ quan, nhưng khi kiểm tra lại hồ sơ, Trưởng phòng tổ chức, cán bộ mới phát hiện chị M không đủ điều kiện vào cơ quan công tác. Tuy nhiên, người phạm tội có việc lợi dụng chức vụ để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ thì mới bị coi là nhận hối lộ. Nếu hành vi để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn thì cũng không bị coi là nhận hối lộ. Ví dụ Hoàng Thanh Q quen Bùi Văn Th là Phó trưởng phòng kiểm sát án dân sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh. T đặt vấn đề với Th giúp đỡ em trai của Q là Hoàng Thanh C bị Công an bắt về tội mua bán trái phép chất ma tuý, Th nhận lời và hứa với Q sẽ xin cho C được tại ngoại. Q đã đưa cho Th đồng để Th lo giúp. Sau khi nhận tiền, Th đã gặp anh Vũ Quốc K là Kiểm sát viên được phân công kiểm sát việc điều tra vụ án này. Th nói với anh Q cố gắng giúp đỡ, nếu C được tại ngoại gia đình C sẽ không quên ơn; anh K thấy Th là người cùng cơ quan lại là lãnh đạo của một Phòng, nên đã nhận lời và đè xuất tạm tha Hoàng Thanh C. Sau khi C được tạm tha, gia đình C kể cho người quen biết phải mất đồng. Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh biết được tin, đã kiểm tra và sự việc bị bại lộ. Trong trường hợp này mặc dù Bùi Văn Th có chức vụ, quyền hạn và cũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nhưng việc nhận tiền của Hoàng Thanh Q lại không liên quan đến chức vụ, quyền hạn của Th. Th cũng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện yêu cầu của Q, vì Th không phải là người được giao trách nhiệm giải quyết yêu cầu của người đưa hối lộ, mà chỉ lợi dụng ảnh hưởng của mình đối với anh K để trục lợi. Trực tiếp hoặc qua trung gian để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ Trực tiếp nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ là trường hợp người nhận hối lộ trực tiếp nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ không thông qua người khác như A đưa hối lộ cho B bằng cách trực tiếp cầm tiền giao cho B hoặc chuyển tiền vào tài khoản của B tại ngân hàng. Việc trực tiếp nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ, thực tiễn không có vấn đề vướng mắc. Tuy nhiên, cần phân biệt trường hợp người trực tiếp nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người khác nhưng người đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác lại không phải là người đưa hối lộ, cũng không phải là người môi giới hối lộ nhưng người nhận tiền vẫn là người nhận hối lộ. Ví dụ Trong vụ án Tân Trường Sanh, cán bộ Phòng chống buôn lậu Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh mỗi lần nhận “tiền thưởng” của người có trách nhiệm phát, họ chỉ biết đó là tiền do các chủ hàng “bồi dưỡng” còn cụ thể tiền đó ai đưa, ai nhận họ không quan tâm. Mặc dù người phát tiền cho họ không phải là người đưa hối lộ cũng không phải là người môi giới hối lộ, mà người đưa tiền thực chất là người được phân công chia của hối lộ trong vụ nhận hối lộ tập thể có tổ chức. Qua trung gian để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ là trường hợp người nhận hối lộ không trực tiếp nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ hoặc người đưa hối lộ không trực tiếp đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác cho người nhận hối lộ. Qua trung gian không nhất thiết là chỉ qua người thứ ba mà có thể qua nhiều người, nhiều khâu nhưng cuối cùng thì tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ cũng đến với người nhận hối lộ. Trường hợp qua trung gian để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, không nhất thiết người nhận hối lộ phải biết người đưa hối lộ là ai, chỉ cần biết đó là của hối lộ là đã bị coi là nhận hối lộ. Tuy nhiên, người nhận hối lộ phải biết nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là nhận của hối lộ, nếu có căn cứ xác định người nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác nhưng không biết đó là của hối lộ thì người nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác đó không bị coi là nhận hối lộ. Ví dụ Ông Vũ Ngọc P là Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện M được giao làm chủ dự án phát triển khu định canh định cư, đã phê duyệt dự án. Sau khi phê duyệt, ông P đi học ở Hà Nội. Trong quá trình thi công, Đỗ Quốc B đại diện cho bên thi công, đã chỉ đạo cấp dưới đem một xe máy, một ti vi và một tủ lạnh đến nhà ông P nói dói với vợ ông P là ông B nhờ mua; bà H vợ ông P tưởng thật nên đã nhận số tài sản trên. Khi ông P về mới biết B cho người đưa tài sản đến gia đình ông trong lúc ông đi vắng. Ông P đã gọi B đến và trả lại số tài sản trên. Tuy nhiên, hiện nay thủ đoạn nhận hối lộ diễn ra rất phức tạp, thường thì người nhận hối lộ không trực tiếp nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ mà để cho cho người thân của mình như Bố, mẹ, vợ, chồng, con...nhận. Có trường hợp người thân của người phạm tội nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác thông qua việc giao dịch mua bán tài sản như Người đưa hối lộ mua tài sản của gia đình người nhận hối lộ với giá gấp 5 gấp 10 lần giá trị thật của tài sản đó. Ví dụ Trịnh Vĩnh B đã mua của gia đình ông Trọng M một mảnh đất với giá 200 lượng vàng, trong khi đó mảnh đất này nếu tính theo giá thực vào thời điểm trao đổi chỉ khoảng 50 lượng vàng. Cũng có trường hợp nhân dịp ma chay, cưới hỏi, sinh nhật, lễ tết... để nhận hối lộ nhưng lại được lại được ngụy trang bởi những lý do có vẻ chính đáng. Pháp luật của ta chưa quy định giá trị tài sản bao nhiêu thì được coi là hối lộ hay chỉ là nhận quà biếu, nên thực tiễn xét xử không ít trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng lúng túng khi xác định hành vi nhận hối lộ hay chỉ là nhận quà biếu. Có ý kiến cho rằng, căn cứ vào khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự thì, quà biếu là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị dưới đồng, vì trên đồng là bị coi là nhận hối lộ. Tuy nhiên, nếu hiểu như vậy, thì lại quá máy móc, vì trên thực tế có những món quà có giá trị hàng chục triệu đồng nhưng nó vẫn là quà biếu, ngược lại có tài sản chỉ có giá trị vài trăm ngàn đồng nhưng nó lại là của hội lộ. Vì vậy, giá trị tài sản không phải là căn cứ để phân biệt hành vi nhận hối lộ hay chỉ là nhận quà biếu, mà còn phải căn cứ cào những dấu hiệu khác của tội phạm này. Đã nhận nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác Là trường hợp người nhận hối lộ đã nhận được tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác mà người đưa hối lộ trực tiếp hoặc qua trung gian giao cho, tức là người nhận hối lộ đã chiếm hữu số tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác như đã cầm tiền, đã cầm tài sản, tiền đã được chuyển vào tài khoản của mình Ngân hàng đã báo có... Sẽ nhận nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là trường hợp người đưa hối lộ hứa sẽ giao tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác cho người nhận hối lộ nhưng chưa giao. Người nhận hối lộ và người đưa hối lộ mới thoả thuận với nhau về của hối lộ, nhưng chưa có việc giao nhận của hối lộ. Ví dụ Trần Ngọc C là cán bộ kiểm lâm thuộc Chi cục kiểm lâm tỉnh B bắt được Nguyễn Văn S mua bán động vật quý hiếm. C yêu cầu S đưa cho C đồng thì tha cho đi; vì không đem theo tiền, nên Nguyễn Văn S hứa nếu C không xử lý, S sẽ đưa cho C đồng. Để làm tin, C yêu cầu S viết một giấy nhận nợ C số tiền đồng. Dù người nhận hối lộ đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ thì cũng không vì thế mà cho rằng, trường hợp đã nhận là tội phạm hoàn thành còn trường hợp sẽ nhận là tội phạm chưa hoàn thành, vì giá trị của hối lộ không phải là hậu quả của tội phạm mà nó chỉ là phương tiện để thực hiện tội phạm, một dấu hiệu khách quan của tội nhận hối lộ, vì tội nhận hối lộ không phải là tội phạm có tính chất chiếm đoạt, nên hành vi nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác không phải là hành vi chiếm đoạt. Hành vi trực tiếp hoặc qua trung gian nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào là việc nhận của hối lộ không bị phụ thuộc vào thủ đoạn mà người đưa và nhận hối lộ thực hiện. Hình thức ở đây là hình thức nhận hối lộ chứ không phải là hình thức giao nhận tiền, nên khi xác định hình thức nhận hối lộ trong một số trường hợp núp dưới danh nghĩa tưởng như hợp pháp thì cần xác định hình thức đó chính là thủ đoạn đưa và nhận hối lộ, còn hình thức cụ thể đó chỉ là thủ đoạn giảo quyết để che giấu tội phạm. Tuy nhiên, nếu hình thức đó không phải là thủ đoạn đưa và nhận hối lộ thì đó lại là một quan hệ thuộc các lĩnh vực dân sư, kinh tế, hành chính hoặc chỉ là quan hệ thuộc lĩnh vực đạo đức. Ví dụ Thông qua một hợp đồng mua bán, nhưng hợp đồng mua bán đó về hình thức và nội dung đều đúng với quy định của pháp luật; người mua chuyển tiền, người bán giao hàng với giá cả thoả thuận thì không thể coi đó là thủ đoạn đưa và nhận hối lộ được. Như vậy hình thức nhận hối lộ không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với cấu thành tội nhận hối lộ, nhưng căn cứ vào hình thức ta xác định được thủ đoạn của hành vi nhận hối lộ do người phạm tội thực hiện. Trong nhiều trường hợp chính thông qua hình thức nhận hối lộ giúp ta xác định được đó là thủ đoạn nhận hối lộ hay chỉ là quan hệ xã hội khác. Ví dụ Cũng là việc nhận quà biếu, trong một hoàn cảnh cụ thể này thì đó là thủ đoạn của hành vi nhận hối lộ, nhưng đặt nó trong một hoàn cảnh khác thì đó lại là quan hệ thuộc lĩnh vực đạo đức. Nhà làm luật quy định “dưới bất cứ hình thức nào” là nhằm bảo đảm không lọt bất cứ một thủ đoạn nào mà người phạm tội sử dụng để nhận hối lộ là rất cần thiết. Tuy nhiên, cũng chính do quy định này nên trong việc xác định đâu là thủ đoạn nhận hối lộ, đâu là quan hệ xã hội khác là một vấn đề phức tạp đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải đánh giá một cách tổng hợp tất cả các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện để tìm ra sự thật. Để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ Đây là dấu hiệu rất quan trọng thuộc mặt khách quan của tội phạm này và thực tiễn xét xử khi xác định dấu hiệu này của tội nhận hối lộ trong nhiều vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng còn có nhiều ý kiến khác nhau dẫn đến việc xác định hành vi phạm tội cũng rất khác nhau. Quan niệm chung của xã hội khi đánh giá một hành vi đưa và nhận hối lộ là phải có tiền thì mới được việc dù việc đó giải quyết đúng hay sai người có yêu cầu giải quyết không quan tâm. Ví dụ Để xin cho con vào học ở một trường chuyên, một phụ huynh đã phong bao cho ông Hiệu trưởng đồng, mặc dù con mình vẫn đủ điểm để được vào học trường đó; việc ông Hiệu trưởng chấp nhận cho con của phụ huynh này vào học là việc làm đúng quy định. Mặc dù việc tiếp nhận con của vị phụ huynh vào trường là hoàn toàn đúng quy định, không trái pháp luật nhưng hành vi nhận đồng của ông Hiệu trưởng vẫn là hành vi nhận hối lộ. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, nếu con của vị phụ huynh trên không đủ điều kiện vào học trường chuyên, vì nhận đồng nên ông Hiệu trưởng mới nhận học sinh đó vào trường thì hành vi của ông Hiệu trưởng mới là hành vi nhận hối lộ, vì ông đã nhận tiền để làm trái công vụ. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cũng thường nêu ra lý do người nhận hối lộ không làm trái công vụ để miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc giảm nhẹ hình phạt và coi đây là một tình tiết giảm nhẹ đặc biệt. Để làm một việc vì lợi ích của người đưa hối lộ là hành vi của người nhận hối lộ đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để giải quyết cho người đưa hối lộ một việc nào đó, mà việc đó có lợi cho chính người đưa hối lộ như Thẩm phán nhận hố lộ của bị cáo để cho bị cáo được hưởng án treo; Điều tra viên nhận hố lộ của bị can đang bị tạm giam để đề xuất thay đổi biện pháp tạm gam thành biệt pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Kiểm sát viên nhận hối lộ của bị can để ra quyết định đình chỉ điều tra; Thủ trưởng nhận hối lộ của cán bộ cấp dưới để tăng lương, bổ nhiệm, đề bạt họ; Cán bộ của Bộ thương mại nhận hối lộ của doanh nghiệp để cấp “quata” xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp đó; Cán bộ của sở nhà đất hoặc của Uỷ ban nhân dân nhận hối lộ để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu Có thể nói, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đều có thể xẩy ra việc đưa và nhận hối lộ. Tuy nhiên, để phân biệt dấu hiệu này với các dấu hiệu khác, thì chỉ cần xem người phạm tội làm một việc và việc đó đem lại lợi cho người đưa hối lộ hay người khác mà người đưa hối lộ quan tâm. Nếu người nhận hối lộ làm một việc vì lợi ích của chính người đưa hối lộ thì thuộc trường hợp phạm tội này, nếu người nhận hối lộ làm một việc lại vì lợi ích của người khác không phải của người đưa hối lộ thuộc trường hợp “để làm một việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ”. Để làm một việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ là trường hợp người nhận hối lộ đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để giải quyết cho người đưa hối lộ một việc nào đó, mà việc đó đem lại lợi ích cho người khác mà người đưa hối lộ quan tâm như Bố mẹ đưa hối lộ để xin học cho con; con đưa hối lộ chạy tội cho bố mẹ; vợ hoặc chồng đưa hối lộ để chạy tội cho chồng hoặc vợ; anh chị em đưa hối lộ để chạy tội cho nhau...Có khi người đưa hối lộ chỉ yêu cầu người nhận hối lộ thi hành nhanh một quyết định của cơ quan, tổ chức có lợi cho người mà người đưa hối lộ quan tâm. Ví dụ Theo quyết định của Toà án nhân dân quận thì bà Phạm Thị M phải trả nhà cho bà Lê Thị H, nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, bà H nhiều lần làm đơn gửi Phòng thi hành án yêu cầu tổ chức thi hành bản án, nhưng vẫn chưa được đáp ứng. Nguyễn Quốc V là con bà H đã đưa hối lộ cho Trần Tuấn A là Đội trưởng đội thi hành án quận và nhờ A làm việc với Phòng thi hành án ra quyết định cưỡng chế để bà H sớm nhận được nhà. Không làm một việc vì lợi ích của người đưa hối lộ là trường hợp vì đã nhận hối lộ nên người phạm tội không thực hiện một việc mà lẽ ra họ phải thực hiện và do không thực hiện nhiệm vụ đó nên đã đem lại lợi ích cho người đưa hối lộ. Ví dụ Không thi hành lệnh bắt tạm giam, để người phạm tội bỏ trốn; không ra lệnh thi hành án phạt tù để người bị kêt án bỏ trốn hoặc hết thời hiệu thi hành án; không bắt người đang phá trại giam để bỏ trốn; không thi hành lệnh cưỡng chế giải phóng mặt bằng; không lập biên bản vi phạm trong trường hợp bắt được hàng lậu, hàng cấm; không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội hoặc không kết án người có tội... Khoa học luật hình sự coi trường hợp phạm tội này là không hành động, tức là không làm một việc mà pháp luật bắt người có chức vụ, quyền hạn phải làm. Không làm một việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ là trường hợp cũng tương tự như trường hợp không làm một việc vì lợi ích của người đưa hối lộ, chỉ khác ở chỗ lợi ích mà người nhận hối lộ đem lại không phải cho người đưa hối lộ mà là cho người khác mà người đưa hối lộ quan tâm, có thể là những người thân của người đưa hối lộ nhưng cũng có thể chỉ là bạn bè của người đưa hối lộ. Ví dụ Phạm Văn Ph bị bắt về tội cưỡng đoạt tài sản và mặt dù Ph không yêu cầu, cũng không có ý định đưa hối lộ, nhưng vì muốn lo cho Ph nhẹ tội, nên Trần Văn K đã đến gặp và đưa hối lộ cho Nguyễn Văn M là điều tra viên được phân công điều tra vụ án USD và nhờ M tìm cách làm nhẹ tội cho Ph. Tóm lại, bị coi là hành vi nhận hối lộ nếu người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình trực tiếp hoặc quan trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào. b. Hậu quả Cũng như hậu quả của các tội phạm khác, hậu quả của tội nhận hối lộ là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất cho xã hội. Hậu quả của hành vi nhận hối lộ không phải là dấu hiệu bắt buộc, tức là, dù hậu quả chưa xảy ra thì hành vi của người phạm tội vẫn cấu thành tội phạm. Đối với tội nhận hối lộ, nhà làm luật quy định giá trị của hối lộ làm ranh giới phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm, nên có quan điểm cho rằng, giá trị của hối lộ là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm và nếu chưa nhận hối lộ hoặc đã nhận hối lộ nhưng giá trị của hối lộ dưới mức quy định của điều luật thì chưa cấu thành tội phạm; coi gía trị của hối lộ là hậu quả của tội phạm. Đây là sự nhầm lẫn giữa hậu quả của tội phạm với giá trị của hối lộ là dấu hiệu khách quan của tội phạm. Đối với tội nhận hối lộ, nhà làm luật quy định giá trị của hối lộ từ đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn nếu dưới đồng thì phải có thêm những điều kiện như Gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Quy định này không có nghĩa là trong mọi trường hợp người phạm tội đã nhận hối lộ mà của hối lộ đồng hoặc dưới đồng có kèm theo điều kiện thì mới cấu thành tội phạm, mà quy định này chỉ đối với trường hợp người phạm tội có ý định nhận hối lộ đồng hoặc dưới đồng và ngay cả với hai trường hợp này nếu người phạm tội chưa nhận của hối lộ thì hành vi của họ vẫn cấu thành tội phạm nhưng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy, nếu người phạm tội mới có ý định nhận hối lộ đồng hoặc dưới đồng và đã làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ nhưng chưa nhận được của hối lộ thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Nếu người phạm tội nhận hối lộ dưới đồng ngoài những điều kiện Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích đã nêu ở phần các dấu hiệu thuộc về nhân thân người phạm tội thì còn phải gây hậu quả nghiêm trọng thì mới cấu thành tội phạm. Trong trường hợp này, thì hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội nhận hối lộ. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi nhận hối lộ gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi nhận hối lộ gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi nhận hối lộ gây ra - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội nhận hối lộ thực hiện hành vi của mình là cố ý cố ý trực tiếp, tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; không có trường hợp nhận hối lộ nào được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì người phạm tội bao giờ cũng mong muốn nhận được của hối lộ. Mặc dù điều luật quy định đã nhận hoặc sẽ nhận, nhưng không vì thế mà cho rằng ý định nhận hối lộ của người phạm tội có sau khi thực hiện hành vi phạm tội, cho dù người phạm tội sẽ nhận của hối lộ sau khi làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì người nhận hối lộ vẫn có ý định nhận của hối lộ trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích của người phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu người phạm tội không có ý định nhận của hối lộ thì dù họ có làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ thì cũng không phải nhận hối lộ. Ví dụ Anh Trần Quốc T là Cảnh sát hình sự được đơn vị phân công điều tra truy tìm thủ phạm trong vụ cướp giật dây chuyền vàng của chị Đào Xuân L. Biết được anh T điều tra vụ án, nên chị L đến gặp anh T đặt vấn đề “Nếu tìm được sợi dây chuyền chị L sẽ biếu anh T đồng”. Nghe chị L nói vậy, anh T chỉ cười và nói “Chúng tôi sẽ làm hết khả năng để tìm được thủ phạm và sợi dây chuyền cho chị.” Khi về đơn vị, anh T kể chuyện cho đơn vị nghe về việc chị L hứa sẽ thưởng đồng nếu ai tìm được sợi dây chuyền cho chị. Sau một thời gian truy tìm, anh T và tổ công tác đã bắt được thủ phạm cướp giật dây chuyền và mời chị L đến nhận lại. Khi đến nhận lại sợi dây chuyền, chị L kể cho chồng nghe về lời hứa với anh T, nhưng chồng chị L cho rằng anh T đòi hối lộ nên đã làm đơn tố cáo anh T. Sau khi lãnh đạo đơn vị xác minh, thì thấy anh T không hề có ý định nhận hối lộ của chị L, nên đơn vị đã mời vợ chồng chị L đến để giải thích. Chồng chị L xin lỗi anh T về sự nghi ngờ không có căn cứ của mình. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội nhận hối lộ không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội nhận hối lộ, có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù. So với tội nhận hối lộ quy định tại Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 179 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn và nếu so sánh giữa tội nhận hối lộ quy định tại Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 thì mức cao nhất và mức thấp nhất của khung hình phạt như nhau. Nhưng căn cứ vào các dấu hiệu quy định tại khoản 1 của Điều 279 thì khoản 1 Điều 279 có lợi cho người phạm tội hơn khoản 1 Điều 226, vì khoản 1 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định tình tiết “đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” là yếu tố định tội và tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm ” quy định tại khoản 1 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985, nay khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định lại là “đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm” cũng là quy định có lợi hơn cho người phạm tội. Do đó, hành vi nhận hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì căn cứ vào các quy định tại khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 để xác định hành vi phạm tội, nhưng khi quyết định hình phạt thì vẫn phải áp dụng khoản 1 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội. Khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là bảy năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi mà thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 279 thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, như đã phân tích ở phần các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm, người dưới 16 khó có thể trở thành chủ thể của tội nhận hối lộ theo khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự, nhưng về lý thuyết thì vẫn có thể xảy ra bởi vì người dưới 16 tuổi vẫn có thể nhận hối lộ trong trường hợp người này giữ một chức vụ trong lớp học như Lớp trưởng, lớp phó, bí thư chi đoàn... Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội nhận hối lộ theo khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc nếu có nhưng mức tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới hai năm tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì - Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật; - Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ; - Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng; - Người phạm tội đã nhận được của hối lộ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa nhận được của hối lộ; giá trị của hối lộ càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại; - Người phạm tội đã tự nguyện nộp lại của hối lộ thì được giảm nhẹ hình phạt hơn người không nộp lại của hối 2. Phạm tội nhận hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, nhận hối lộ có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án nhận hối lộ có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên phạm tội nhận hối lộ có tổ chức có những đặc điểm riêng như Người thực hành trong vụ án nhận hối lộ có tổ chức phải là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trực tiếp hoặc qua trung gian nhận của hối lộ. Nhận hối lộ có tổ chức thường khó bị phát hiện, vì có sự cấu kết, phân công vai trò, trách nhiệm của từng người đồng phạm nên khó bị phát hiện. Điển hình cho việc nhận hối lộ có tổ chức là vụ án Tân Trường Sanh, trong đó việc nhận hối lộ xảy ra tại Phòng điều tra chống buôn lậu do Phùng Long Thất cầm đầu. Chỉ khi cơ quan điều tra phát hiện hành vi buôn lậu của Trần Đàm và đồng bọn thì hành vi nhận hối lộ của Phùng Long Thất và đồng bọn mới bị phát hiện. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra truy tố đối với một số cán bộ hải quan thuộc Phòng điều tra chống buôn lậu thuộc Cục hải quan thành phố Hồ Chí Minh, do không nắm chắc các dấu hiệu của hành vi phạm tội có tổ chức, nên đã có quan điểm cho rằng những cán bộ không phải là Trưởng, Phó phòng chỉ phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can từ tội nhận hối lộ sang tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đối với một số cán bộ thuộc Phòng điều tra chống buôn lậu hải quan thành phố Hồ Chí Minh được tách ra từ vụ án Tân Trường Sanh để truy tố xét xử trong vụ án Anh Lâm. Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đã quyết định trả hồ sơ và đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao truy tố các cán bộ hải quan thuộc Cục hải quan thành phố Hồ Chí Minh về tội nhận hối lộ. Trong những năm gần đây, nhận hối lộ có tổ chức với quy lớn thường được tổ chức rất chặt chẽ và kèm theo hành vi nhận hối lộ là hành vi tham ô, cố ý làm trái, thiếu trách nhiệm và những hành vi khác gây thiệt hại rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đến lợi ích của cơ quan, tổ chức. b. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn Người phạm tội nhận hối lộ nhất thiết phải là người lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì mới nhận được hối lộ, nếu chỉ có lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có thì đó chỉ là tình tiết là yếu tố định tội, nhưng nếu người nhận hối lộ lại lạm dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có để nhận hối lộ thì lại là tình tiết là yếu tố định khung hình phạt. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn là làm một việc vượt quá chức vụ, quyền hạn mà mình có vượt ra khỏi phạm vi quyền hạn của mình như Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường ra lệnh bắt người tạm giữ hoặc tạm giam; Trưởng Công an phường, xã bắt người tạm giữ, tạm giam để đòi hối lộ; cán bộ quản lý thị trường ra lệnh khám nhà, khám người Để lạm dụng chức vụ, quyền hạn, trước hết người phạm tội phải có chức vụ, quyền hạn nhưng đã sử dụng vượt quá chức vụ, quyền hạn đã có. Nếu một người không có chức vụ, quyền hạn gì nhưng lại mạo danh là mình có chức vụ, quyền hạn đó để lấy của hối lộ thì không phải là lạm dụng chức vụ, quyền hạn để nhận hối lộ mà là hành vi lừa dảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự. Thông thường, người phạm tội trong trường hợp này chỉ lạm dụng quyền hạn, chứ ít khi lạm dụng chức vụ. Tuy nhiên, quyền hạn bao giờ gắn liền với chức vụ, nên khi nói đến lạm quyền cũng là lạm dụng chức vụ. Trước đây, thuật ngữ lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lạm dụng chức vụ, quyền hạn được hiểu như nhau. Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân đã dùng thuật ngữ “lạm dụng chức quyền” để chỉ hành vi phạm tội lạm dụng chức quyền, để chiếm đoạt tài sản của công dân Điều 8 và được giải thích là “Lạm dụng chức quyền có thể là làm trong phạm vi quyền hạn của mình hoặc vượt ra khỏi phạm vi quyền hạn của mình”.11 Quá trình phát triển của pháp luật hình sự và qua thực tiễn xét xử các nhà làm luật thấy cần thiết phải phân biệt hai thuật ngữ “lạm dụng chức vụ, quyền hạn” và lợi dụng chức vụ, quyền hạn”. Lạm dụng là có ít mà dùng nhiều, dùng quá mức, vượt ra khỏi phạm vi được phép. Trong cuộc sống chúng ta cũng thường gặp khái niệm lạm dụng như Lạm dụng việc sử dụng thuốc tân dược, lạm dụng việc sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc mầu thực phẩm. và thuật ngữ lạm dụng đã được sử dụng đúng với nghĩa của nó. c. Phạm tội nhiều lần Phạm tội nhận hối lộ nhiều lần là có từ hai lần nhận hối lộ trở lên và mỗi lần nhận hối lộ đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý kỷ luật, phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. d. Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước là trường hợp người nhận hối lộ biết rõ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là tài sản Nhà nước mà vẫn nhận. Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định tài sản của Nhà nước mà chỉ quy định tài sản xã hội chủ nghĩa. Việc nhà làm luật thay đổi khái niệm tài sản xã hội chủ nghĩa bằng khái niệm tài sản của Nhà nước không chỉ đơn thuần thay đổi về tên gọi tính chất tài sản mà nó làm thay đổi tính chất, phạm vi áp dụng đối với hành vi phạm tội nói chung và tội nhận hối lộ nói riêng. Tài sản xã hội chủ nghĩa có nội hàm rộng hơn tài sản của Nhà nước. Tài sản xã hội chủ nghĩa bao gồm cả tài sản của các tổ chức kinh tế tập thể, nhưng tài sản của Nhà nước thì chỉ bao gồm tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Về khái niệm tài sản của Nhà nước cho đến nay vẫn còn ý kiến khác nhau, nếu tài sản thuộc quyền sở hữu hoàn toàn của Nhà nước thì không cần phải bàn cãi, nhưng nếu tài sản chỉ thuộc quyền sở hữu một phần của Nhà nước thì vấn đè lại không đơn giản như Các công ty cổ phần, Công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các đơn vị liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với các đơn vị kinh tập thể hoặc tư nhân... Nếu người nhận hối lộ biết của hối lộ là tài sản của các đơn vị kinh tế này thì có coi là tài sản của Nhà nước không ? Đây là vấn chưa được hướng dẫn giải thích nên trong thực tiễn xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng thường có quan điểm khác nhau khi phải xác định tài sản của Nhà nước là yếu tố định khung hình phạt hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong một số tội phạm. Có thể còn ý kiến khác nhau về thế nào là tài sản của Nhà nước nhưng chúng tôi cho rằng, về nguyên tắc, tài sản của Nhà nước phải thuộc sở hữu của Nhà nước. Nếu tài sản đó Nhà nước chỉ có quyền sở hữu một phần dù đó là phần lớn thì cũng chưa thể coi đó là tài sản của Nhà nước. đ. Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt Tình tiết này chứa đựng ba nội dung khác nhau Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt. Người phạm tội chỉ thuộc một trong ba trường hợp phạm tội này đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự, nhưng nếu người phạm tội nhận hối lộ thuộc cả ba trường hợp phạm tội này thì cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 của điều luật. Đòi hối lộ là người nhận hối lộ chủ động yêu cầu người khác phải đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác cho mình thì mới làm hoặc không làm một việc vì lợi ích của hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Ví dụ Đinh Minh L là Phó chi cục trưởng chi cục kiểm lâm tỉnh N được phân công giải quyết xử lý hai xe gỗ lậu do tổ công tác kiểm lâm bắt được. Chủ của hai xe gỗ này là Vũ Văn H đã đến nhà L xin được xử phạt hành chính để được xin lại hai xe gỗ trên, nhưng L không đồng ý mà yêu cầu H, muốn xử phạt hành chính thì phải đưa cho L đồng. Sau khi nhận được đồng, L đã quyết định xử phạt hành chính và trả hai xe gỗ cho H. Thực tiễn xét xử cho thấy người nhận hối lộ không trực tiếp yêu cầu người khác phải đưa hối lộ nhưng lại có thủ đoạn gợi ý hoặc qua trung gian để gợi ý cho người khác đưa hối lộ cho mình. Trường hợp phạm tội này cũng phải coi là đòi hối lộ, thậm chí còn bị coi là dùng thủ đoạn xảo quyệt để đòi hối lộ. Sách nhiễu là trường hợp người nhận hối lộ gây khó dễ cho người khác để đòi tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của họ như Đã có quyết định cấp đất nhưng cố tình trì hoãn việc giao quyết định cho người được giao đất; đã có chủ trương đền bù giải phóng mặt bằng nhưng cố tình trì hoãn việc thanh toán cho người được đền bù; đã có bản án có hiệu lực pháp luật, có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành nhưng cố tình trì hoãn việc ra quyết định thi hành Nói chung người sách nhiễu để đòi hối lộ là người không làm một việc vì lợi ích của người đưa hối lộ. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người nhận hối lộ sách nhiễu để đòi hối lộ và làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Sách nhiễu là gây chuyện lôi thôi để đòi hối lộ, sách nhiễu, vòi vĩnh để đòi của đút là thói tham lam, xấu xa của bọn quan lại ngày xưa mà nhân dân ta thường lên án. Ngày nay Đảng và Nhà nước ta cũng coi sách nhiễu là hành động tha hoá của một bộ phận công chức trong bộ máy Nhà nước cần phải xử lý nghiêm khắc. Nhà làm luật coi tình tiết sách nhiễu để dòi hối lộ là yếu tố định khung hình phạt cũng là phù hợp với đạo đức xã hội thể hiện được ý chí của nhân dân. Dùng thủ đoạn xảo quyệt để nhận hối lộ là người phạm tội nhận hối lộ có những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người đưa hối lộ hoặc những người khác khó lường thấy được để đề phòng. Những mánh khoé, cách thức mà người nhận hối lộ sử dụng để nhận hối lộ rất đa dạng, nhưng chỉ coi là dùng thủ đoạn xảo quyệt đối với những mánh khoé, cách thức làm cho người khác dễ bị lừa hoặc nếu biết cũng không đối phó được như Nhận hối lộ nhưng lại buộc người đưa phải viết giấy bán tài sản cho mình hoặc giấy biên nhận nợ; nhận hối lộ bằng cách buộc người đưa hối lộ mua tài sản của mình với giá gấp nhiều lần so với giá thật; nhận hối lộ bằng cách buộc người đưa hối lộ chuyển vào tài khoản của mình một khoản tiền được ngụy trang dưới một hợp đồng mua bán hay đứng tên người khác... Nói chung, những mánh khoé, cách thức nhận hối lộ mà người nhận hối lộ sử dụng rất khó phát hiện hoặc nếu có bị phát hiện thì khó tìm được chứng cứ để buộc tội họ. e. Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng Đây là trường hợp người phạm tội nhận hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng. Nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm nhận của hối lộ hoặc đã hứa nhận hối lộ, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Ví dụ Nguyễn Văn M mua chiếc xe Wave với giá đồng, nhưng khi đưa hối lộ cho Vũ Ngọc P thì xe Wave của Trung Quốc bị hạ giá chỉ còn đồng. Nếu tính giá trị chiếc xe khi M mua thì P phạm tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự, nhưng nếu tính giá trị chiếc xe vào thời điểm M đưa hối lộ cho P thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị của hối lộ thì phải trưng cầu giám định định giá. Điều luật quy định của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng, chứ không quy định người phạm tội đã nhận được của hối lộ có giá trị như trên, nên chỉ cần xác định người phạm tội sẽ nhận của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã nhận được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc. Trường hợp người phạm tội chưa nhận được của hối lộ, thì cũng không vì thế mà cho rằng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, vì điều luật quy định “ đã nhận hoặc sẽ nhận”, nên chỉ cần có thoả thuận là sẽ nhận là tội phạm đã hoàn thành. Đây là đặc điểm khác với một số tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì được coi là phạm tội chưa đạt, nhưng đối với tội nhận hối lộ thì dù chưa nhận được của hối lộ vẫn coi là tội phạm đã hoàn thành. g. Gây hậu quả nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở khoản 1 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này là hậu quả nghiêm trọng do hành vi nhận hối lộ từ đồng đến dưới đồng. Nếu dưới đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng khác nếu do hành vi nhận hối lộ mà - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng Tương tự như đối với tọi tham ô, khoản 1 của điều luật chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng còn điểm g khoản 2 của điều luật lại quy định gây hậu quả nghiêm trọng khác, nên có ý kiến cho rằng hậu quả nghiêm trọng khác và hậu quả nghiêm trọng không phải là một. Nếu sự phân biệt trên là có căn cứ thì khoản 1 của điều luật quy định hậu quả nghiêm trọng cũng khó xác định đâu là hậu quả trực tiếp do hành vi nhận hối lộ gây ra, còn đâu là hậu quả gián tiếp do hành vi nhận hối lộ gây ra ? vì các thiệt hại khác đều là những thiệt hại gián tiếp do hành vi nhận hối lộ gây ra và nó chỉ là hậu quả khác. Do đó có ý kiến cho rằng, khoản 1 điều luật cũng nên quy định gây hậu quả nghiêm trọng khác mới chính xác. Quan điểm này cũng có cơ sở lý luận và thực tiễn. Hy vọng rằng khi có điều kiện, nhà làm luật sẽ nghiên cứu sửa đổi để phù hợp hơn. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn khoản 2 Điều 226. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 279 có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, khi áp dụng khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý Nếu hành vi nhận hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà của hối lộ từ đồng đén dưới đồng thì vẫn áp dụng khoản 2 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985; Nếu hành vi nhận hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà của hối lộ là tài sản xã hội chủ nghĩa nhưng không phải là tài sản của Nhà nước thì chỉ áp dụng khoản 1 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985 mà không áp dụng điểm d khoản 2 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội nhận hối lộ theo khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự, Toà án cũng cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới hai năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì, khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới mười lăm năm tù. Khi cân nhắc để quyết định một mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội nhận hối lộ, Toà án cần căn cứ vào nguyên tắc đã được nêu ở tội tham ô tài sản 13 3. Nhận hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 279 Bộ luật hình sự a. Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ Giá trị của hối lộ từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng. Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 của điều luật, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm nhận của hối lộ hoặc đã hứa nhận hối lộ; chỉ cần xác định người phạm tội sẽ nhận của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 279 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã nhận được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc; nếu người phạm tội chưa nhận được của hối lộ, thì cũng không vì thế mà cho rằng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm g khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi nhận hối lộ gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng khác. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi nhận hối lộ gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Cũng như đối với tội tham tài sản, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng khác do hành vi nhận hối lộ gây ra, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi nhận hối lộ gây ra - Làm chết hai người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 279 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 3 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 3 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn khoản 3 Điều 226. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 279 có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, khi áp dụng khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý - Nếu hành vi nhận hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà của hối lộ từ đồng đến dưới đồng thì vẫn áp dụng khoản 3 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985; - Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật thì cũng chỉ áp dụng khoản 2 điều luật mà không áp dụng khoản 3 của điều luật, vì tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều này” khoản 3 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định nữa. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội tham ô tài sản theo khoản 3 Điều 279 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới mười lăm năm tù nhưng không được dưới bảy năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới hai mươi năm tù. Khi cân nhắc để quyết định một mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội nhận hối lộ, Toà án cần căn cứ vào nguyên tắc đã được nêu ở tội tham ô tài sản 15 4. Nhận hội lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 279 Bộ luật hình sự a. Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2, điểm a khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ Giá trị của hối lộ từ ba trăm triệu đồng trở lên. Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 2, điểm a khoản 3 của điều luật, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm nhận của hối lộ hoặc đã hứa nhận hối lộ; chỉ cần xác định người phạm tội sẽ nhận của hối lộ có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên là thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 4 Điều 279 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã nhận được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc; nếu người phạm tội chưa nhận được của hối lộ, thì cũng không vì thế mà cho rằng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm g khoản 2, điểm b khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi nhận hối lộ gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác do hành vi nhận hối lộ gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Cũng như đối với tội tham tài sản, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi nhận hối lộ gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi nhận hối lộ gây ra Làm chết ba người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 279 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 4 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 4 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 4 Điều 226, vì khoản 4 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, còn khoản 4 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt tù hai năm, tù chung thân hoặc tử hình. Mặt khác, khoản 4 Điều 279 không còn quy định tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này” là yếu tố định khung hình phạt và giá trị của hối lộ quy định tại khoản 4 Điều 279 cũng lớn hơn đồng so với đồng. Vì vậy, khi áp dụng khoản 3 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý - Nếu hành vi nhận hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà của hối lộ từ đồng đến dưới đồng thì vẫn áp dụng khoản 4 Điều 226 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng khi quyết định hình phạt thì phải căn cứ vào khung hình phạt tại khoản 3 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. - Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 của điều luật thì cũng chỉ áp dụng khoản 3 điều luật mà không áp dụng khoản 4 của điều luật, vì tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này” khoản 4 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định nữa. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội nhận hối lộ theo khoản 4 Điều 279 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới hai mươi năm tù nhưng không được dưới mười lăm năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 4 là khoản 3 Điều 279 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tuy có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, là người có nhân thân xấu, không còn khả năng cải tạo thì có thể áp dụng hình phạt tử hình. Do điều luật quy định khung hình phạt có ba mức khác nhau và để việc áp dụng thống nhất pháp luật Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15-3-2001 dẫn áp dụng một số quy định của các Điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 Bộ luật hình sự. Theo hướng dẫn này thì Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và không có tình tiết giảm nhẹ hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, nhưng đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ tương đương nhau, thì xử phạt người phạm tội mức án tương ứng với của hối lộ như sau - Xử phạt hai mươi năm tù nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới tám trăm triệu đồng; - Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng đến dưới hai tỷ đồng; - Xử phạt tử hình nếu của hối lộ có giá trị từ hai tỷ đồng trở lên. Trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn, đồng thời đánh giá tính chất giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nhẹ hơn mức án được hướng dẫn trên, cụ thể như sau - Xử phạt tù từ mười lăm năm đối với tội nhận hối lộ hoặc từ mười ba năm đối với tội đưa hối lộ đến dưới hai mươi năm nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới tám trăm triệu đồng trường hợp này phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS; - Xử phạt hai mươi năm tù nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng đến dưới hai tỷ đồng; - Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ hai tỷ đồng trở lên. Trong trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng mà không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn, đồng thời đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ xét thấy cần tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nặng hơn mức án được hướng dẫn trên, cụ thể như sau - Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới tám trăm triệu đồng; - Xử phạt tử hình nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng trở lên. Trong trường hợp theo hướng dẫn thì người phạm tội nhận hối lộ phải bị xử phạt tử hình, nhưng người phạm tội nhận hối lộ đã nộp lại một phần đáng kể giá trị của hối lộ hoặc người thân thích, ruột thịt... của người phạm tội đã nộp thay cho người phạm tội, thì có thể không xử phạt tử hình người phạm tội và tuỳ vào giá trị của hối lộ nộp lại mà có thể xử phạt người phạm tội tù chung thân hoặc tù có thời hạn. Được coi là đã nộp lại một phần đáng kể giá trị của hối lộ nếu - Giá trị của hối lộ đã nộp lại phải được ít nhất một phần hai giá trị của hối lộ đã nhận; - Giá trị của hối lộ đã nộp lại phải được từ một phần ba đến dưới một phần hai giá trị của hối lộ đã nhận, nếu có căn cứ chứng minh rằng người phạm tội hoặc người thân thích, ruột thịt... của người phạm tội đã thực hiện mọi biện pháp để nộp lại giá trị của hối lộ đã nhận đã bán hết nhà ở, tài sản có giá trị; cố gắng vay, mượn... đến mức tối đa. 5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội nhận hối lộ Theo quy định tại khoản 5 Điều 279 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội nhận hối lộ còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. So với quy định tại Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì hình phạt bổ sung đối với tội nhận hối lộ quy định tại khoản 5 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi, bổ sung như sau - Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “ có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 5 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm”. Nếu căn cứ vào mức hình phạt thì khoản 5 Điều 279 nhẹ hơn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng căn cứ vào nguyên tắc áp dụng hình phạt này thì khoản 5 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định không có lợi cho người phạm tội vì việc áp dụng hình phạt cấm đảm chức vụ đối với người phạm tội nhận hối lộ là bắt buộc “bị cấm”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định không bắt buộc Toà án phải áp dụng “có thể bị cấm”. ậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 5 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. - Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, thì khoản 5 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 lại quy định “có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Như vậy, việc áp dụng hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với người nhận hối lộ quy định tại khoản 5 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn là bắt buộc nữa. Toà án có thể áp dụng và cũng có thể không áp dụng nếu tháy việc áp dụng hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với người phạm tội là không cần thiết. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội nhận hối lộ trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 5 Điều 279 Bộ luật hình sự năm 1999. 3. TỘI LẠM DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN Điều 280. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản 1. Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm a Có tổ chức; b Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; c Phạm tội nhiều lần; d Tái phạm nguy hiểm; đ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; e Gây hậu quả nghiêm trọng khác. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm a Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân a Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. 5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Định Nghĩa Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn và đã lạm dụng chức vụ, quyền hạn đó để chiếm đoạt tài sản của người khác. Khác với tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn là tội phạm không được Nhà nước ta quy định sớm mà tội phạm này lần đầu tiên được quy định tai Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân ngày 21-10-1970 với tội danh là “Tội lạm dụng chức quyền để chiếm đoạt tài sản của công dân” Điều 8. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội phạm này tại chương “các tội xâm phạm sở hữu của công dân” Điều 156. Khi pháp lệnh chống tham nhũng ra đời thì tội phạm này được coi là một trong những tội tham nhũng và được sửa đổi theo Luật sửa đổi, bổ xung một số điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 10-5-1997. Cùng với tội tham ô tài sản, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trong chương các tội phạm về tham nhũng mà không quy định tại chương các tội phạm xâm phạm sở hữu là đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong tình hình hiện nay. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm cũng là các dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội; là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản với các tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt. Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản cũng phải đảm bảo các yếu tố điều kiện cần và đủ như độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này Trước hết, người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản phải là người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn là người đã được nêu ở phần khái niệm các tội phạm về chức vụ. Nếu so sánh với tội tham ô tài sản, thì người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác không phải là người có liên quan đến việc quản lý tài sản; còn nếu so sánh với tội nhận hối lộ, thì người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như người phạm tội nhận hối lộ ở chỗ Phạm vi chức vụ, quyền hạn của người phạm tội rộng hơn, chỉ khác nhau ở chỗ Người phạm tội nhận hối lộ lại không có hành vi chiếm đoạt tài sản mà là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ. Nếu chỉ xét về yếu tố chủ thể thì tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác và tội nhận hối lộ có nhiều điểm tương đồng, chỉ cần căn cứ vào Điều 1 Pháp lệnh cán bộ, công chức và Nghị định số 95-1998/NĐ-CP ngày 17-11-1998 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức như đã phân tích ở phần thứ nhất để xác định thế nào là cán bộ, công chức. Cũng như chủ thể của tội tham ô tài sản và chủ thể của tội nhận hối lộ, chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn mới chiếm đoạt được tài sản của người khác. Tuy nhiên, khẳng định này chỉ đúng đối với trường hợp vụ án không có đồng phạm, còn trong vụ án có đồng phạm thì có thể có cả những người không có chức vụ, quyền hạn nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi dục, người giúp sức, còn người thực hành, thì nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Tương tự như đối với tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ, nếu người phạm tội chỉ có ý định chiếm đoạt dưới đồng thì phải là người trước đó đã bị xử lý kỷ luật về hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn được xoá kỷ luật, nay lại có hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý kỷ luật, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thì cũng chưa cấu thành tội phạm này. Nếu người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị dưới đồng nhưng đã bị két án về một trong các tội quy định tại mục A chương XXI, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác đã cấu thành tội phạm và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác. Đã bị kết án về tội quy định tại mục A chương này chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, người phạm tội đã bị Toà án kết án về một trong các tội Tội tham ô tài sản Điều 278; tội nhận hối lộ Điều 279; tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản Điều 280; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ Điều 281; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ Điều 282; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi Điều 283 và tội giả mạo trong công tác Điều 284, nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác không phải là một trong 7 tội phạm trên hoặc tuy đã bị kết án về một trong 7 tội phạm trên nhưng đã được xoá án tích thì cũng chưa cấu thành tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 2. khoản 3 và khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại các khoản trên là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, đối với những người này họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác với vai trò giúp sức, vì những người này chưa thể trở thành cán bộ, công chức. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng có trường hợp người dưới 16 tuổi lại là người chủ mưu, khởi xướng, giúp sức trong vụ án có đồng phạm như Được người có chức vụ, quyền hạn giao cho đi nhận tiền của người bị hại; chuyển các yêu cầu của người có chức vụ, quyền hạn đến người bị hại; hứa hẹn chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản cho người có chức vụ, quyền hạn... Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này theo khoản 1 của Điều 280 Bộ luật hình sự, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chính quyền; cao hơn là chính thể bị sụp đổ. Vì vậy, tham ô hối lộ, lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác là đối tượng phải đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi. Tuy nhiên, cũng như đối với tội tham ô tài sản, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại chương các tội phạm xâm phạm sở hữu của công dân Chương VI phần tội phạm, Bộ luật hình sự năm 1985, nên khách thể của tội phạm này là chế độ sở hữu của công dân. Nay tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác được quy định tại Chương các tội phạm về chức vụ thì khách thể của tội phạm không còn là chế độ sở hữu nữa. Do đó, có ý kiến cho rằng, khách thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác vẫn là quan hệ sở hữu, vì nó trực tiếp xâm phạm đến quan hệ sở hữu. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, các dấu hiệu thuộc mặt khác quan cũng là những dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác với các tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt hoặc do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện. a. Hành vi khách quan Trước hết, người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, phải là người có hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi vượt quá quyền hạn của mình, làm trái công vụ để chiếm đoạt tài sản của người khác. Theo điều văn của điều luật thì người có chức vụ, quyền hạn chỉ là chủ thể của tội phạm này khi họ lạm dụng chức vụ, quyền hạn mà họ có. Vậy nếu họ không lạm dụng mà chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản của người khác thì có phạm tội này không ? Nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý là hành vi tham ô, nhưng nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản do người khác quản lý thì có phạm tội không, nếu có thì đó là tội gì ? Lợi dụng và lạm dụng là hai thuật ngữ khác nhau, mặc dù trước đây được giải thích là một. Tuy nhiên, ranh giới giữa hành vi lợi dụng với hành vi lạm dụng không phải bao giờ cũng phân biệt được một cách rạch ròi. Ví dụ Một cán bộ cảnh sát làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự đường phố đã thu toàn bộ số vé xổ số của người bán vé số trên vỉa hè và chiếm đoạt luôn số hàng đó. Trong trường hợp này, khó có thể xác định người cảnh sát lạm dụng hay lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. Nếu cho rằng người cảnh sát lạm dụng chức vụ, quyền hạn thì cũng không sai, bởi lẽ Theo quy định của pháp luật thì Cán bộ cảnh sát làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự đường phố không có chức năng thu giữ tài sản, việc thu giữ tài sản là vượt quá quyền hạn mà người cảnh sát có. Nhưng nếu cho rằng người cảnh sát này lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì cũng không có gì sai, vì nếu không là cảnh sát thì không được làm nhiệm vụ, mà không được làm nhiệm vụ thì làm sao thu giữ được vé số của người bán vé số trên vỉa hè. Có thể có trong thực tế có những trường hợp khó phân biệt giữa lạm dụng với lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nhưng không vì thế mà cho rằng hai khái niệm là một. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi vượt quá giới hạn cho phép. Giới hạn cho phép chính là quyền hạn mà người có chức vụ có; quyền hạn này do pháp luật quy định, thường là do luật tổ chức cơ quan, tổ chức quy định; trong một số trường hợp quyền hạn này do một ngành luật đặc trưng cho nghề nghiệp quy định như Quyền hạn của những người tiến hành tố tụng trong các vụ án hình sự là do Bộ luật tố tụng hình sự quy định; quyền hạn của cán bộ Hải quan do Pháp lệnh về hải quan quy định. Ví dụ Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì Thẩm phán Toà án các cấp không có quyền ra lệnh bắt bị cáo tạm giam, cũng như không có quyền trả tự do cho bị cáo đang tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử mà chỉ có Chánh án, Phó chánh án mới có quyền này; Chỉ có Thẩm phán từ cấp tỉnh trở lên chủ toạ phiên toà mới có quyền bắt người để tạm giam. Vì vậy, khi xác định một người có lạm dụng chức vụ, quyền hạn hay không, trước hết phải căn cứ vào chức vụ họ đang giữ và theo pháp luật thì họ có những quyền gì ? Nếu trong khi thi hành công vụ họ đã thực hiện vượt quá giới hạn cho phép là lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong nhiều tội phạm có dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trước đây được quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 thuộc nhóm tội có tính chất chiếm đoạt, nay quy định tại chương các tội phạm về chức vụ nhưng tính chất chiếm đoạt của hành vi phạm tội này vẫn không có gì thay đổi. Tuy nhiên, thủ đoạn chiếm đoạt của người phạm tội chủ yếu bằng hình thức công khai trắng trợn, tức là hành vi chiếm đoạt gần như đối với trường hợp cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự, cũng chính vì vậy mà tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự, nhà làm luật không quy định tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” hay “lạm dụng chức vụ, quyền hạn” là yếu tố định khung hình phạt. Người có chức vụ, quyền hạn, lạm dụng chức vụ, quyền hạn phải chiếm đoạt tài sản của người khác thì mới cấu thành tội phạm này. Nếu không có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, mà chỉ gây thiệt hại đến lợi ích của người khác thì tuỳ trường hợp mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ theo Điều 282 Bộ luật hình sự; tội nhận hối lộ theo điểm b khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự hoặc tội tha trái pháp luật người đang bị tạm giam, giữ theo Điều 302 Bộ luật hình sự . Ví dụ Vũ Quốc H là kỹ sư vẽ thiết kế chỉ giới mở đường đã cố tình thay đổi chỉ giới mở đường để người bị hại tin rằng nhà của mình bị giải toả nên họ đã vội bán với rất rẻ, rồi sau đó lại thay đổi chỉ giới theo đúng thiết kế ban đầu. Cũng như hành vi chiếm đoạt trong các tội có tính chất chiếm đoạt khác, hành vi chiếm đoạt trong tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi chuyển dịch trái phép tài sản thuộc sở hữu hoặc quyền quản lý hợp pháp thành của mình hoặc của người khác mà mình quan tâm. Hành vi chiếm đoạt tài sản vừa là hệ quả vừa là mục đích của hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn của người phạm tội. Mối quan hệ giữa hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn với hành vi chiếm đoạt là mối quan hệ nhân quả, trong đó hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn là nguyên nhân còn hành vi chiếm đoạt là hậu quả. Mặc dù điều văn của điều luật quy định “chiếm đoạt tài sản của người khác” nhưng không vì thế mà cho rằng đó chỉ là tài sản của công dân, mà phải hiểu người khác bao gồm Nhà nước, tổ chức và mọi công dân. Như vậy, người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác không chỉ bao gồm tài sản của công dân mà bao gồm cả tài sản của Nhà nước, của tổ chức. Đây là đặc điểm khác với tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, về lý luận, cũng như thực tiễn xét xử có trường hợp người phạm tội không lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản do chính mình quản lý thì hành vi của người phạm tội cấu thành tội tham ô tài sản hay tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác ? Nếu xác định hành vi của người phạm tội là hành vi tham ô tài sản thì không thoả mãn dấu hiệu “lợi dụng chức vụ, quyền hạn”, còn nếu xác định hành vi của người phạm tội là hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản thì lại không thoả mãn dấu hiệu “chiếm đoạt tài sản của người khác”. Có ý kiến cho rằng, không thể có trường hợp người phạm tội tham ô tài sản có hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản do chính mình có trách nhiệm quản lý; nếu có thì hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn của họ cũng không có ý nghĩa vì trên thực tế họ chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn là đủ, còn nếu trong khi lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà họ vượt quá quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản do chính mình có trách nhiệm quản lý thì cũng không vì thế mà cho rằng, họ không lợi dụng chức vụ, quyền hạn; chẳng qua là do họ lợi dụng một cách thái quá mà thôi. Hơn nữa dấu hiệu chiếm đoạt tài sản là chiếm đoạt tài sản do chính người phạm tội có trách nhiệm quản lý nên họ vẫn phạm tội tham ô tài sản. Theo chúng tôi, có thể còn ý kiến khác nhau về trường hợp này, nhưng ý kiến trên có nhân tố hợp lý của nó và có như vậy, thì mới lý giải được những vướng mắc khi mà pháp luật quy định còn những điểm còn mâu thuẫn. Nếu tội tham ô tài sản cũng quy định tình tiết lạm dụng chức vụ, quyền hạn là yếu tố định khung hình phạt như đối với tội nhận hối lộ thì vẫn đề sẽ đơn giản hơn. Hy vọng rằng, khi có điều kiện, Quốc hội sẽ bổ sung tình tiết lạm dụng chức vụ, quyền hạn là yếu tố định khung hình phạt đối với tội tham ô tài sản. b. Hậu quả Cũng như hậu quả của các tội phạm về chức vụ khác, hậu quả của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất cho xã hội. Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, thiệt hại trước hết là thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn có những thiệt hại khác phi vật chất. Hậu quả của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, xét về phương diện các yếu tố cấu thành tội phạm thì không phải là dấu hiệu bắt buộc, tức là, dù hậu quả chưa xảy ra nhưng hành vi vẫn cấu thành tội phạm. Trong Bộ luật hình sự, không chỉ đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, mà đối với nhiều tội phạm khác, nhà làm luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt làm ranh giới phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm, nên có quan điểm cho rằng, thiệt hại về tài sản của các tội phạm này là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nếu chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được nhưng giá trị tài sản dưới mức quy định của điều luật thì chưa cấu thành tội phạm. Sự nhầm lẫn này xuất phát từ sự nhầm lẫn về lý luận, giữa hậu quả của tội phạm với thiệt hại thực tế đã xảy ra, bời vì hậu quả của tội phạm không chỉ là những thiệt hại do tội phạm đã gây ra mà còn đe doạ gây ra cho xã hội, tức là thiệt hại vật chất chưa xảy ra nhưng cũng đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, nhà làm luật quy định chiếm đoạt từ đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn nếu chiếm đoạt dưới đồng thì phải có thêm những điều kiện như Gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Quy định này không có nghĩa là trong mọi trường hợp người phạm tội phải chiếm đoạt được đồng hoặc dưới đồng có kèm theo điều kiện thì mới cấu thành tội phạm, mà quy định này chỉ đối với trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt đồng hoặc dưới đồng và ngay cả với hai trường hợp này nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản thì hành vi của họ vẫn cấu thành tội phạm nhưng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, gây ra - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa. 17 Tuy nhiên, hướng dẫn trên là hướng dẫn đối với các tội xâm phạm sở hữu, nhưng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, cũng là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, có thể áp dụng Thông tư liên tịch này để xác định trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, cũng là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt khác, người phạm tội thực hiện hành vi của mình là cố ý cố ý trực tiếp, tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; không có trường hợp lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác nào được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì người phạm tội bao giờ cũng mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Nếu mục đích của người phạm tội chưa đạt được chưa chiếm đoạt được tài sản, thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, nếu mục đích đó không cấu thành một tội phạm độc lập. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, có khung hình phạt từ một năm đến sáu năm tù. So với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt, thì khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn, nhưng căn cứ vào các dấu hiệu quy định tại khoản 1 của Điều 280 thì không có lợi cho người phạm tội, vì khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chiếm đoạt đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định chiếm đoạt đồng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu so sánh tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tai Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985, vì hình phạt cao nhất quy định tại Điều 280 là tù chung thân, còn hình phạt cao nhất quy định tại Điều 156 là tử hình, nên hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999. Nhưng để xác định các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì phải căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác theo khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54.18 Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới một năm tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tuy có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến sáu năm 2. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự b. Có tổ chức. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Các vụ án lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có tổ chức, thường kèm theo các hành vi phạm tội khác xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân như Khám người, khám chỗ ở trái phép; bắt người trái phép... b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiện hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác là trường hợp người phạm tội có những mánh khoé, cách thức thâm hiểm làm cho cơ quan, tổ chức, người quản lý tài sản và những người khác khó lường trước để đề phòng như Tạo dựng ra một sự việc vu khống cho người bị hại để chiếm đoạt tài sản của họ hoặc dùng thủ đoạn tinh vi làm cho người bị hại không lường được buộc phải giao tài sản cho người phạm tội. Dùng thủ đoạn nguy hiểm khi thực hiện hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác là trường hợp người phạm tội có những thủ đoạn chiếm đoạt tài sản hoặc thủ đoạn che giấu hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của con người như c. Phạm tội nhiều lần Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác nhiều lần là có từ hai lần lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trở lên và mỗi lần đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác nhiều lần. d. Tái phạm nguy hiểm Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội dặc biệt nghiêm trọng do cố ý, hoặc tái phạm, chưa được xoá án mà lại phạm tội do cố ý điểm a và điểm b khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự năm 1999. So với trường hợp tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điêu 40 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tái phạm nguy hiểm có một số điểm khác như sau - Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định "đã bị phạt tù về tội nghiêm trọng" thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định "đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng". - Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định "mà lại phạm tội nghiêm trọng", thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định "mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng". - Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định "mà lại phạm tội ít nghiêm trọng do cố ý hoặc tội nghiêm trọng", thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định "mà lại phạm tội do cố". Như vậy, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự năm 1999 có đặc điểm sau - Đã hai lần phạm tội đều là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, hoặc một trong hai lần đó là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, trong đó có một lần đã bị kết án. Ví dụ Đã bị kết án về tội giết người theo khoản 2 Điều 93, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999. - Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý, không phân biệt tội đó là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng. - Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 đều không quy định "đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mới" thì có bị coi là tái phạm nguy hiểm hay không ? Đây cũng là vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn xét xử còn ý kiến trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng, Bộ luật hình sự không quy định thì không được áp dụng vì nếu áp dụng là làm xấu đi tình trạng của người phạm tội. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, một người đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mới còn bị coi là tái phạm nguy hiểm huống hồ người đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mới thì càng phải coi họ là tái phạm nguy hiểm. Chúng tôi cho rằng, chỉ coi là tái phạm nguy hiểm đối với trường hợp mà Bộ luật hình sự quy định "đã tái phạm...", tức là đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xoá án tích mà còn phạm tội do cố ý thì mới bị coi là tái phạm nguy hiểm, còn nếu phạm tội do vô ý dù là tội đó là tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng, thì cũng không coi là tái phạm nguy hiểm. Ví dụ A đã bị án về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác và trong bản án đó, Toà án đã xác định A phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, chưa được xoá án tích, thì A lại phạm tội " lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác "thì phải coi trường hợp phạm tội của A là tái phạm nguy Đối với Chương các tội phạm về chức vụ cả mục A và mục B chỉ có tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác nhà làm luật quy định tái phạm nguy hiểm là yếu tố định khung hình phạt. Không phải các tội phạm khác không có trường hợp tái phạm nguy hiểm, mà việc nhà làm luật không quy định tình tiết tái phạm nguy hiểm là yếu tố định khung hình phạt là căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của từng tội phạm cụ thể. Cũng như đối với các tội phạm khác quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 không phải tội phạm nào nhà làm luật cũng quy định tình tiết tái phạm nguy hiểm là yếu tố định khung hình phạt mà chỉ đối với một số tội phạm xét thấy người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm cần phải xử lý nghiêm hơn trường hợp không tái phạm nguy hiểm. Tuy nhiên, theo đánh giá của các luật gia, các cán bộ làm công tác thực tiễn thì trong chương các tội phạm về chức vụ còn có một số tội phạm nhà làm luật có thể quy định tình tiết tái phạm nguy hiểm là yếu tố định khung hình phạt như tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ... Vì những tội phạm này, nếu người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm đều cần phải xử phạt nghiêm hơn trường hợp không tái phạm nguy hiểm. Những ý kiến này, chúng tôi thấy thoả đáng, không chỉ bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật mà còn phù hợp với thực tiễn xét xử. Hy vọng rằng, khi có dịp sửa đổi bổ sụng Bộ luật hình sự năm 1999, Quốc hội sẽ quan tâm đến đề nghị này. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự, hoặc tái phạm, chưa được xoá án mà lại phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự. đ. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng Đây là trường hợp người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội khác, nếu tài sản bị chiếm đoạt không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định định giá. Mặc dù điều luật quy định chiếm đoạt tài sản, nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản, đã thực hiện thủ đoạn để chiếm đoạt có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. e. Gây hậu quả nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở khoản 1 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác từ đồng đến dưới đồng. Nếu dưới đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì đã thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật rồi. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng khác nếu do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng Tương tự như đối với tội tham ô, khoản 1 của điều luật chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng còn điểm e khoản 2 của điều luật lại quy định gây hậu quả nghiêm trọng khác, nên có ý kiến cho rằng hậu quả nghiêm trọng khác và hậu quả nghiêm trọng không phải là một. Đây là vấn đề có thể có những quan điểm khác nhau, vì về lý luận cũng như thực tiễn xét xử chưa có trường hợp nào cần phải phân biệt giữa hậu quả nghiêm trọng với hậu quả nghiêm trọng khác. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác cũng chỉ quy định hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng mà chưa quy định hậu quả nghiêm trọng khác. Tuy nhiên, khi nói hậu quả nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra là những thiệt hại trực tiếp do chính hành vi phạm tội cũng như thủ đoạn thực hiện tội phạm gây ra như giá trị tài sản bị chiếm, còn hậu quả nghiêm trọng khác do hành vi tham ô gây ra là những thiệt hại gián tiếp do việc thực hiện tội phạm gây ra như do lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác nên gây ra sự nghi ngờ, mất lòng tin của nhân dân vào chính quyền, do lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, nên không thực hiện được các chính sách xã hội, do lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác nên dễn đến người bị hại điêu đứng phải bỏ nhà, phải ốm đau dẫn đến tổn hại đén sức khoẻ thậm chí bị tử vong Nếu sự phân biệt trên là có căn cứ, thì khoản 1 của điều luật quy định hậu quả nghiêm trọng cũng khó xác định ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt, còn các thiệt hại khác đều là những thiệt hại gián tiếp do hành vi phạm tội gây ra và nó chỉ là hậu quả khác. Do đó có ý kiến cho rằng, khoản 1 điều luật cũng nên quy định gây hậu quả khác mới chính xác. Quan điểm này cũng có cơ sở lý luận và thực tiễn. Hy vọng rằng khi có điều kiện, nhà làm luật sẽ nghiên cứu sửa đổi để phù hợp hơn. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 có những thay đổi theo hướng không có lợi cho người phạm tội, mặc dù khung hình phạt ở hai khoản này như nhau từ sáu năm đến mười ba năm tù như điểm đ khoản 2 Điều 280 quy định “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng”, còn điểm c khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng”.Vì vậy, nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ đồng đến dưới đồng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì vẫn áp dụng khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự, Toà án cũng cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới một năm tù vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mực độ giảm nhẹ không đáng kể, tập trung nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của điều luật thì có thể bị phạt mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt đến 13 năm tù Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 280 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự. 22 3. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Cũng như các trường hợp khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định định giá. Cũng như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2, điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện thủ đoạn chiếm đoạt số tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ Trường hợp phạm tội này hậu quả khác do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội tham ô gây ra. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra Làm chết hai người; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội, mặc dù khung hình phạt ở khoản 3 Điều 280 và khoản 3 Điều 280 như nhau từ mười ba năm đến hai mươi năm tù, Vì vậy, khi áp dụng khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý một số điểm sau Nếu hành vi hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 280 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 và cũng không áp dụng khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985, mà chỉ áp dụng khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985. Nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ đồng đến dưới đồng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì vẫn áp dụng khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985; Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác theo khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới mười ba năm tù nhưng không được dưới sáu năm tù. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 280 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự. 24 4. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên. Cũng như các trường hợp khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định định giá. Cũng như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 và và điểm a khoản 3, điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm trăm triệu đồng trở lên mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện thủ đoạn chiếm đoạt số tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng khác quy định tại điểm đ khoản 2 và gây hậu quả rất nghiêm trọng khác tại điểm b khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ Trường hợp phạm tội này hậu quả khác do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra Làm chết ba người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 4 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân và khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 điều này”. Vì vậy, khi áp dụng khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý Nếu hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều 280 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 và cũng không áp dụng khoản 4 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985, mà chỉ áp dụng khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác theo khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới hai mươi năm tù nhưng không được dưới mười ba năm tù. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 280 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình 5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác Theo quy định tại khoản 5 Điều 280 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. So với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi bổ sung như sau Nếu Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 5 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 5 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. - Nếu Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung thì Điều 20 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”. Vì vậy, Toà án không được áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý. - Nếu Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “Tuỳ theo tính chất nghiêm trọng của tội phạm mà có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” thì Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định loại hình phạt này nữa. Vì vây, Toà án không được áp dụng hình phạt tịch thu tài sản đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý. 4. TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ Điều 281. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ 1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm a Có tổ chức; b Phạm tội nhiều lần; c Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm. 4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. Định Nghĩa Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là hành vi vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là tội phạm chỉ được quy định từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành. Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ chỉ được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ví dụ khoản 4 Điều 19 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 13-10-1967 quy định lợi dụng chức vụ, quyền hạn để hoạt động phản cách mạng là trường hợp cần xử phạt nặng; bản tổng kết ngày 10-8-1970 của Toà án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử loại tội giết người cũng quy định lợi dụng chức vụ, quyền hạn để giết người là tình tiết tăng nặng. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn và hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ đều tại một điều luật Điều 221. Tuy nhiên, do chưa có thực tiễn xét xử nhiều loại tội phạm này, nên lúc đầu Điều 221 chỉ quy định một khung hình phạt, không quy định các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt. Đến năm 1991, do yêu cầu đấu tranh loại tội phạm này, nên từ năm 1991 đến năm 1997, Quốc hội liên tục sửa đổi bổ sung Điều 221 vào các ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997 theo hướng tách hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ ra thành điều luật riêng Điều 221a; cấu tạo lại thành nhiều khoản khác nhau; mức hình phạt cũng nghiêm khắc hơn nhiều so với Điều 221 chưa sửa đổi, bổ sung. nếu mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 221 lúc đầu là năm năm tù thì sau khi sửa đổ, bổ sung lần thứ 3 vào ngày 10-5-1997 thì mức cao nhất đối với tội phạm này là hai mươi năm tù. Tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo Bộ luật hình sự năm 1999, Ban soạn thảo đã căn cứ vào thực tiễn xét xử và yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này nên chỉ cấu tạo tội phạm này thành ba khoản không tính khoản 4 quy định hình phạt bổ sung và mức hình phạt cao nhất cũng giảm xuống còn mười lăm năm tù, đồng thời bổ sung, sửa đổi một số tình tiết không còn phù hợp. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm cũng là các dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội; là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ với các tội phạm khác cũng có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng phải đảm bảo các yếu tố điều kiện cần và đủ như độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này Trước hết, người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ phải là người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn là người đã được nêu ở phần khái niệm các tội phạm về chức vụ. Nếu so sánh với tội tham ô tài sản, thì người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng có thể là người có liên quan đến việc quản lý tài sản và cũng có thể không; phạm vi chức vụ, quyền hạn của người phạm tội rộng hơn đối với tội tham ô; còn nếu so sánh với tội nhận hối lộ, thì người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng tương tự như người phạm tội nhận hối lộ, chỉ khác nhau ở chỗ Người phạm tội nhận hối lộ lại không có hành vi gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lơi ích hợp pháp của công dân mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận hối lộ. Nếu chỉ xét về yếu tố chủ thể thì tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ và các tội có liên quan đến chức vụ, quyền hạn thì có nhiều điểm tương đồng, chỉ cần căn cứ vào Điều 1 Pháp lệnh cán bộ, công chức và Nghị định số 95-1998/NĐ-CP ngày 17-11-1998 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức như đã phân tích ở phần thứ nhất để xác định thế nào là cán bộ, công chức. Cũng như chủ thể của các tội phạm về chức vụ, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn mới thực hiện được tội phạm. Tuy nhiên, khẳng định này chỉ đúng đối với trường hợp vụ án không có đồng phạm, còn trong vụ án có đồng phạm thì có thể có cả những người không có chức vụ, quyền hạn nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi dục, người giúp sức, còn người thực hành, thì nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 281 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội trên là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, đối với những người này họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án, vì ở độ tuổi này họ chưa thể trở thành cán bộ, công chức. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng có trường hợp người dưới 16 tuổi lại là người chủ mưu, khởi xướng, giúp sức trong vụ án. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 281 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này theo khoản 1 của Điều 281 Bộ luật hình sự, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào Nhà nước. Mặc dù tội phạm này gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân nhưng không vì thế mà cho rằng khách thể của tội phạm này những thiệt hại thực tế xảy ra của Nhà nước, của xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân, mà những thiệt hại đó chỉ là hậu quả của hành vi phạm tội. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, các dấu hiệu thuộc mặt khác quan cũng là những dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn. a. Hành vi khách quan Trước hết, người phạm tội phải là người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình. Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng tương tự như hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người phạm tội tham ô, tội nhận hối lộ và các tội phạm khác có việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn và đã sử dụng chức vụ, quyền hạn đó một cách trái phép nhằm mục đích mà họ đặt ra. Nếu không sử dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có thì không thực hiện được hành vi để đạt được mục đích của mình. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ để gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi gây thiệt hại đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của người phạm tội, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện được hành vi gây thiệt hại; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện hành vi gây thiệt hại một cách dễ dàng. Vì vậy, khi xác định một người có lợi dụng chức vụ, quyền hạn hay không, trước hết phải căn cứ vào chức vụ họ đang giữ và theo pháp luật thì họ có những quyền gì ? Nếu trong khi thi hành công vụ họ đã thực hiện vượt quá giới hạn cho phép là lạm dụng chức vụ, quyền hạn, mà không phải là lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn với hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong nhiều tội phạm có dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lạm dụng chức vụ, quyền hạn. b. Hậu quả Người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền hạn phải gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Nếu không gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân mà nhằm mục đích khác, thì tuỳ trường hợp mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ theo Điều 282 Bộ luật hình sự; tội nhận hối lộ theo điểm b khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự; tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác theo Điều 280 Bộ luật hình sự, hoặc tội tha trái pháp luật người đang bị tạm giam, giữ theo Điều 302 Bộ luật hình sự . Khác với các tội phạm khác, hậu quả của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, hậu quả lại là dấu hiệu bắt buộc. Nếu hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chưa gây thiệt hại thì chưa cấu thành tội phạm này. Ngoài thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm thì còn có những hậu quả khác không phải lại dấu hiệu bắt buộc nhưng trong một số trường hợp nó là yếu tố định khung hình phạt như hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trong đó có những thiệt hại vật chất, có thiệt hại phi vật chất. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, người phạm tội thực hiện hành vi của mình là cố ý cố ý trực tiếp, tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; không có trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân nào được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì người phạm tội bao giờ cũng mong muốn gây thiệt hại cho xã hội. Tuy nhiên, vẫn đề không chỉ có tính lý luận mà có ý nghĩa vô cùng quan trọng là xác định động cơ của người phạm tội. Theo điều văn của điều luật thì động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc. Điều này thể hiện ngay câu đầu tiên “Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác”. Nếu không xác định được động cơ của người phạm tội thì hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân chưa cấu thành tội phạm này. Động cơ vụ lợi là vì lợi ích vật chất của mình, của đơn vị mình hoặc của một tổ chức mà mình tham gia... Nói chung, thực tiễn xét xử việc xác định động cơ vụ lợi không khó, nhưng khó nhất vẫn là việc xác định động cơ cá nhân khác của người phạm tội. Động cơ cá nhân khác là vì lợi ích phi vật chất của mình, của người khác mà mình quan tâm như vì nể nang, vì cảm tình cá nhân, vì danh vọng, địa vị xã hội... B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 281 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến ba năm bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng. So với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ quy định tại Điều 221 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào hình phạt tù, thì khoản 1 Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn, nhưng khoản 1 của Điều 281 có quy định hình phạt cải tạo không giam giữ nên phải coi khoản 1 Điều 281 là quy định có lợi cho người phạm tội. Nếu hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì Toà án có thể áp dụng khoản 1 Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999 để có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 281 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, thì có thể được áp dụpha hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tù dưới một năm tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến năm năm tù. 2. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 281 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. b. Phạm tội nhiều lần Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ nhiều lần là có từ hai lần lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ trở lên và mỗi lần đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ nhiều lần. c. Gây hậu quả nghiêm trọng Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây hậu quả nghiêm trọng là do thực hiện hành vi phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ nên đã gây ra những thiệt hại cho xã hội và cho con người. Khác với một số tội phạm quy định trong chương các tội phạm về chức vụ nhà lam luật quy định gây hậu quả nghiêm trọng khác, tội phạm này chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, như chúng tôi đã phân tích về các tội phạm có tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng khác, hậu quả nghiêm trọng và hậu quả nghiêm trọng khác không phải là một, nhưng thực tiễn xét xử trong những trường hợp cụ thể lại phải chấp nhận là một và cũng tuỳ thuộc vào tội phạm cụ thể mà hiểu và xác định tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng hay hậu quả nghiêm trọng khác như thế nào cho phù hợp. Đến nay, việc hướng dẫn về tình tiết này trong một số tội phạm đã được quan tâm, nhưng cũng không phải trường hợp phạm tội nào cũng có thể áp dụng hoặc tham khảo các hướng dẫn đó để xác định tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, có thể coi là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây ra nếu - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 281 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù từ năm năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 221 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999 không có quy định gì mới. Tuy nhiên, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ quy định tại Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nhẹ hơn so với Điều 221 Bộ luật hình sự năm 1985, nên hành vi phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 281 Bộ luật hình sự, Toà án cũng cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới năm năm tù nhưng không được dưới một năm tù vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 281 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mực độ giảm nhẹ không đáng kể, tập trung nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của điều luật thì có thể bị phát mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt đến 10 năm tù. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 281 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 281 Bộ luật hình sự. 28 3. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 281 Bộ luật hình sự Khoản 3 của điều luật quy định hai tình tiết có nội dung như nhau nhưng lại có tính chất và mức độ nghiêm trọng khác nhau là yếu tố định khung hình phạt, đó là Gây hậu quả rất nghiêm trọng và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Nếu xét về kỹ thuật lập pháp thì việc quy định này chưa khoa học, tình trạng này không chỉ đối với tội phạm lợi chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, mà chúng ta còn thấy ở nhiều tội phạm khác, nhà làm luật cũng quy định như vậy. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử mặc dù hai tình tiết này đều được quy định trong cùng một khung hình phạt, nhưng khi quyết định hình phạt Toà án vẫn có thể phân biệt trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng với trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để áp dụng một hình phạt tương xứng đối với hậu quả mà người phạm tội gây ra. a. Gây hậu quả rất nghiêm trọng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi phạm tội gây ra, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây ra. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây ra - Làm chết hai người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại điểm c khoản 2 và gây hậu quả rất nghiêm trọng tại điểm a khoản này, chỉ khác ở chỗ Trường hợp phạm tội này hậu quả khác do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây ra Làm chết ba người trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 281 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 3 Điều 221 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 3 Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội, mặc dù khung hình phạt ở khoản 3 Điều 221 và khoản 3 Điều 281 như nhau từ mười năm đến mười lăm năm tù, Vì vậy, khi áp dụng khoản 3 Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý một số điểm sau Nếu hành vi hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 281 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 3 Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999 và cũng không áp dụng khoản 3 Điều 221 Bộ luật hình sự năm 1985; Nếu hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 4 Điều 221 Bộ luật hình sự năm 1985 mà áp dụng khoản 3 Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo khoản 3 Điều 281 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội chỉ gây hậu quả rất nghiêm trọng và có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới mười năm tù nhưng không được dưới năm năm tù. Nếu người phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tuy có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, là người tổ chức, phạm tội nhiều lần thì có thể bị phạt mức cao nhất của khung hình phạt mười lăm năm tù. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. So với Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì khoản 4 Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi bổ sung sau Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “ có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 4 Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm”. Nếu căn cứ vào mức hình phạt thì khoản 4 Điều 281 nhẹ hơn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng căn cứ vào nguyên tắc áp dụng hình phạt này thì khoản 4 Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định không có lợi cho người phạm tội vì việc áp dụng hình phạt cấm đảm chức vụ đối với người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là bắt buộc “bị cấm”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định không bắt buộc Toà án phải áp dụng “có thể bị cấm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 4 Điều 281 Bộ luật hình sự năm 1999. 5. TỘI LẠM QUYỀN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ Điều 282. Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ 1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm a Có tổ chức; b Phạm tội nhiều lần; c Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm. 4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. Định nghĩa Lạm quyền trong khi thi hành công vụ là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi hoặc động cơ các nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái công vụ được giao gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Cũng như đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn và hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ chung trong một điều luật Điều 221 và lúc đầu cũng chỉ quy định một khung hình phạt, không quy định các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt. Do yêu cầu đấu tranh loại tội phạm này, nên từ năm 1991 đến năm 1997, Quốc hội liên tục sửa đổi bổ sung Điều 221 vào các ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997 theo hướng tách hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ ra thành điều luật riêng Điều 221a; cấu tạo lại thành nhiều khoản khác nhau; mức hình phạt cũng nghiêm khắc hơn nhiều so với Điều 221 chưa sửa đổi, bổ sung. nếu mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 221 lúc đầu là năm năm tù thì sau khi sửa đổ, bổ sung lần thứ 3 vào ngày 10-5-1997 thì mức cao nhất đối với tội phạm này là tù chung thân, nặng hơn cả tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, Tuy nhiên, cũng như đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, trong quá trình soạn thảo Bộ luật hình sự năm 1999, Ban soạn thảo đã căn cứ vào thực tiễn xét xử và yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này nên chỉ cấu tạo tội phạm này thành ba khoản không tính khoản 4 quy định hình phạt bổ sung và mức hình phạt cao nhất cũng chỉ còn hai mươi năm tù, đồng thời bổ sung, sửa đổi một số tình tiết không còn phù hợp. Về cơ bản, tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ quy định tại Điều 282 được cấu tạo tương tự như tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ quy định tại Điều 281, kể cả đối với các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, chỉ khác nhau ở chỗ mức hình phạt trong từng khung hình phạt quy định tại Điều 282 nặng hơn Điều 281. Qua đó ta thấy thái dộ của Nhà nước ta trừng trị hành vi lạm quyền nặng hơn hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Đối với tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm cũng là các dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội; là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ với các tội phạm khác cũng có hành vi lạm quyền. Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ cũng phải đảm bảo các yếu tố điều kiện cần và đủ như độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này Trước hết, người phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ phải là người có chức vụ, quyền hạn, nếu không có chức vụ, quyền hạn thì không thể lạm quyền được. Người không có chức vụ, quyền hạn mà tự xưng là mình có chức vụ, quyền hạn thì đó là mạo danh, giả danh chứ không phải là lạm quyền. Người có chức vụ, quyền hạn là người đã được nêu ở phần khái niệm các tội phạm về chức vụ. Nếu so sánh với các tội có dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, thì tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ, xét về tư cách chủ thể thì không có gì khác nhau, chỉ khác nhau ở hành vi khách quan lạm quyền với lợi dụng quyền. Do đó, chỉ cần căn cứ vào Điều 1 Pháp lệnh cán bộ, công chức và Nghị định số 95-1998/NĐ-CP ngày 17-11-1998 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức như đã phân tích ở phần thứ nhất để xác định thế nào là cán bộ, công chức. Tuy nhiên, ngoài cán bộ công chức, thì còn có những người khác cũng có thể lạm quyền nếu họ đủ những điều kiện quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự. Cũng như chủ thể của các tội phạm về chức vụ, tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn mới thực hiện được tội phạm. Tuy nhiên, khẳng định này chỉ đúng đối với trường hợp vụ án không có đồng phạm, còn trong vụ án có đồng phạm thì có thể có cả những người không có chức vụ, quyền hạn nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi dục, người giúp sức, còn người thực hành, thì nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 282 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội trên là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, đối với những người này họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án người chủ mưu, khởi xướng, giúp sức, vì ở độ tuổi này họ chưa thể trở thành cán bộ, công chức. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 282 Bộ luật hình sự, mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này theo khoản 1 của Điều 282 Bộ luật hình sự, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng, vì mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ cũng là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Mặc dù tội phạm này gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân, nhưng không vì thế mà cho rằng khách thể của tội phạm này là những thiệt hại thực tế xảy ra cho Nhà nước, của xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân, mà những thiệt hại đó chỉ là hậu quả của hành vi phạm tội dấu hiệu thuộc mặt khách quan. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm Đối với tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ, các dấu hiệu thuộc mặt khác quan cũng là những dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác có hành vi lạm quyền. a. Hành vi khách quan Trước hết, người phạm tội phải là người có hành vi lạm quyền. Hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ cũng tương tự như hành vi lạm quyền trong các tội phạm tội khác, người phạm tội đã vướt quá quyền hạn mà pháp luật cho phép. Hành vi vượt quá quyền hạn cũng tương tự như hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại Điều 280 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, hành vi lạm quyền quy định tại Điều 282 Bộ luật hình sự không phải là phương tiện để người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác mà là nguyên nhân gây ra những thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Nếu căn cứ vào điều văn của điều luật, thì hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn quy định tại Điều 280 với hành vi lạm quyền quy định tại Điều 282 Bộ luật hình sự không phải là một vì nếu là một thì Điều 280 cũng phải quy định làm quyền chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc Điều 282 phải quy định lạm dụng chức vụ, quyền hạn gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, cũng có ý kiến cho rằng, hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn và hành vi lạm quyền không phải là một. Về hình thức cấu tạo từ ngữ thì đúng là hai thuật ngữ này khác nhau và nếu phân tích một cách chi tiết từng âm tiết thì lạm dụng chức vụ, quyền hạn với lạm quyền có điểm giống nhau và cũng có điểm khác nhau. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn có nội hàm rộng hơn, nó bao gồm cả lạm quyền, còn lạm quyền chỉ là một bộ phận của lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, xét về ý nghĩa pháp lý thì khi dùng thuật ngữ lạm dụng chức vụ, quyền hạn thì phải đi liền với hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc hành vi khác và hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chỉ là thủ đoạn còn hành vi tiếp theo là mục đích của người có chức vụ, quyền hạn. Còn khi dùng thuật ngữ lạm quyền thì hành vi này không phải là thủ đoạn phạm tội mà nó là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại và thiệt hại do chính hành vi lạm quyền gây ra, liền ngay sau hành vi lạm quyền, không còn hành vi nào khác của người phạm tội nữa. Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa việc dùng hai thuật ngữ, chứ không phải sự khác nhau về bản chất của hai thuật ngữ. Lạm quyền trong khi thi hành công vụ là vượt quá quyền hạn của mình, tức là làm một việc ngoài phạm vi chức trách của mình như Chủ tịch xã, phường ra lệnh dỡ nhà dân để giải phóng mặt bằng, ra lệnh tạm giữ người có hành vi vi phạm pháp luật; Cán bộ quản lý thị trường tịch thu hàng hoá của người kinh doanh trái phép; Cảnh sát giao thông phạt tiền lái xe vi phạm quá mức tiền phạt mà pháp luật cho phép; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra ra lệnh bắt người tạm giam khi chưa có phê chuẩn của Viện kiểm sát; Kiểm sát viên phê chuẩn lệnh gia hạn tạm giam mà lẽ ra lệnh này phải do Viện trưởng mới có quyền phê chuẩn; Thẩm phán ký quyết định tạm giam bị cáo mà lẽ ra phải do Phó chánh hoặc Chánh án mới có quyền Nếu người phạm tội lạm quyền nhưng không phải trong khi thi hành công vụ thì không thuộc trường hợp quy định tại Điều 282 Bộ luật hình sự, mà tuỳ trường hợp mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng. Ví dụ Kiểm sát viên không được giao nhiệm vụ kiểm sát điều tra nhưng đã tự ý can thiệp với cán bộ điều tra để làm sai lệch hồ sơ vụ án theo hướng có lợi cho người phạm tội để trục lợi, thì hành vi của Kiểm sát viên là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi thuộc trường hợp quy định tại Điều 283 Bộ luật hình sự. b. Hậu quả Cũng như đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, hậu quả của tội lạm quyền trong khi người thi hành công vụ là dấu hiệu bắt buộc. Nếu hành vi lạm quyền chưa gây thiệt hại thì chưa cấu thành tội phạm này. Ngoài thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì còn có những hậu quả khác không phải lại dấu hiệu bắt buộc nhưng trong một số trường hợp nó là yếu tố định khung hình phạt như hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trong đó có những thiệt hại vật chất, có thiệt hại phi vật chất. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, người phạm tội thực hiện hành vi của mình là cố ý có cả cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xảy ra. Cũng như đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, động cơ phạm tội của người phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ là dấu hiệu bắt buộc. Điều này cũng được thể hiện ngay câu đầu tiên của điều văn “Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác”. Nếu không xác định được động cơ của người phạm tội thì hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân chưa cấu thành tội phạm này. Vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác cũng tương tự đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thành công vụ chúng tôi đã giới thiệu ở trên. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 282 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ, có khung hình phạt từ một năm đến bảy năm tù, là tội phạm nghiêm trọng. So với tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ quy định tại Điều 221a Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 282 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn và nếu so sánh giữa Điều 221a với Điều 282 thì Điều 282 là điều luật quy định một tội phạm nhẹ hơn. Vì vậy, nếu hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì Toà án áp dụng khoản 1 Điều 282 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 282 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tù dưới một năm tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 2. Lạm quyền trong khi thi hành công vụ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 282 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, lạm quyền trong khi thi hành công vụ có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án lạm quyền trong khi thi hành công vụ có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. b. Phạm tội nhiều lần Lạm quyền trong khi thi hành công vụ nhiều lần là có từ hai lần lạm quyền trong khi thi hành công vụ trở lên và mỗi lần đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ nhiều lần. c. Gây hậu quả nghiêm trọng Lạm quyền trong khi thi hành công vụ gây hậu quả nghiêm trọng là do thực hiện hành vi phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ, nên đã gây ra những thiệt hại cho xã hội và cho con người. Khác với một số tội phạm quy định trong chương các tội phạm về chức vụ nhà làm luật quy định gây hậu quả nghiêm trọng khác, tội phạm này chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, như chúng tôi đã phân tích về các tội phạm tội có tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng khác, hậu quả nghiêm trọng và hậu quả nghiêm trọng khác không phải là một. Cũng như đối với các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở các tội phạm khác, có thể coi là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ gây ra nếu - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 282 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 221a Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 282 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, nên hành vi phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 282 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Cũng như đối với các trường hợp phạm tội khác, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 282 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới năm năm tù nhưng không được dưới một năm tù vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 282 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mực độ giảm nhẹ không đáng kể, tập trung nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của điều luật thì có thể bị phạt đến mười hai năm tù. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 282 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 282 Bộ luật hình 3. Lạm quyền trong khi thi hành công vụ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 282 Bộ luật hình sự Cũng tương tự như khoản 3 của Điều 281, khoản 3 của Điều 282 cũng quy định hai tình tiết có nội dung như nhau nhưng lại có tính chất và mức độ nghiêm trọng khác nhau là yếu tố định khung hình phạt, đó là Gây hậu quả rất nghiêm trọng và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Nếu xét về kỹ thuật lập pháp thì việc quy định này chưa khoa học, không chỉ đối với tội phạm này mà chúng ta còn thấy ở nhiều tội phạm khác, nhà làm luật cũng quy định như vậy. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử, mặc dù hai tình tiết này đều được quy định trong cùng một khung hình phạt, nhưng khi quyết định hình phạt Toà án vẫn phải phân biệt trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng với trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để áp dụng một hình phạt tương xứng đối với hậu quả mà người phạm tội gây ra. a. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lạm quyền trong khi người thi hành công vụ gây ra - Làm chết hai người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại điểm c khoản 2 và gây hậu quả rất nghiêm trọng tại điểm a khoản này, chỉ khác ở chỗ Trường hợp phạm tội này hậu quả khác do hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ gây ra. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ gây ra Làm chết ba người trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 282 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 3 Điều 221a Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 3 Điều 282 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nhẹ hơn, Vì vậy, khi áp dụng khoản 3 Điều 282 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý một số điểm sau - Nếu hành vi hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 282 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 3 Điều 282 Bộ luật hình sự năm 1999 và cũng không áp dụng khoản 3 Điều 221a Bộ luật hình sự năm 1985; - Nếu hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 4 Điều 221a Bộ luật hình sự năm 1985 mà áp dụng khoản 3 Điều 282 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ theo khoản 3 Điều 282 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội chỉ gây hậu quả rất nghiêm trọng và có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới mười năm tù nhưng không được dưới năm năm tù. Nếu người phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tuy có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, là người tổ chức, phạm tội nhiều lần thì có thể bị phạt mức cao nhất của khung hình phạt hai mươi năm tù. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. So với Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 4 Điều 282 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi bổ sung sau Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “ có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 4 Điều 282 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm”. Nếu căn cứ vào thời gian cấm mức, thì khoản 4 Điều 282 nhẹ hơn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng căn cứ vào nguyên tắc áp dụng hình phạt này thì khoản 4 Điều 282 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định không có lợi cho người phạm tội vì việc áp dụng hình phạt cấm đảm chức vụ đối với người phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ là bắt buộc “bị cấm”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định không bắt buộc Toà án phải áp dụng “có thể bị cấm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 4 Điều 282 Bộ luật hình sự năm 1999. 6. TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN GÂY ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÁC ĐỂ TRỤC LỢI Điều 283. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm a Có tổ chức; b Phạm tội nhiều lần; c Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; d Gây hậu quả nghiêm trọng khác. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm a Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng b Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân a Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên; b Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. 5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền hoặc giá trị tài sản đã trục lợi. Định Nghĩa Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào, để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi là tội phạm mới được quy định do yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng chống tệ tham nhũng đặt ra, nên tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX ngày 10-5-1999 đã bổ sung và được quy định tại Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985. Tội phạm này gần giống với tội nhận hối lộ nhưng vì người phạm tội không thoả mãn yếu tố chủ thể của tội nhận hối lộ, vì người phạm tội nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người khác nhưng họ không có trách nhiệm giải quyết yêu cầu của người đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác mà phải tác động với người có trách nhiệm trực tiếp yêu cầu cho người “đưa hối lộ”. So với Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 không có thay đổi lớn, vẫn cấu tạo thành 4 khoản, khung hình phạt ở mỗi khoản không thay đổi. Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội trong giai đoạn mới, nên Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 có một số sửa đổi, bổ sung. Trong đó, sửa đổi lớn nhất là giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác mà người phạm tội nhận được quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội; bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 điều này”. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Như chúng tôi đã nêu ở trên, tội phạm này gần giống với tội nhận hối lộ, nên các dấu hiệu của tội phạm này cũng tương tự như các dấu hiệu của tội nhận hối lộ, điểm khác nhau duy nhất của tội phạm này với tội nhận hối lộ là mối quan hệ giữa chức vụ, quyền hạn mà người phạm tội có với hành vi khách quan mà họ thực hiện. Dấu hiệu khác nhau cơ bản này sẽ được phân tích cụ thể. Tuy nhiên, để tiện theo dõi một cách có hệ thống, chúng tôi vẫn lần lượt phân tích từng dấu hiệu của tội phạm này. 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi là các dấu hiệu quan trọng nhất để xác định hành vi phạm tội, là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội phạm này với các tội phạm khác do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi cũng phải đảm bảo các yếu tố điều kiện cần và đủ như độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này Trước hết, người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi phải là người có chức vụ, quyền hạn nhất định. Phạm vi chức vụ, quyền hạn của người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi cũng giống với tội nhận hối lộ. Tuy nhiên, người phạm tội nhận hối lộ là người đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, còn người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi chỉ dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn để người này làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc không được phép làm. Người có chức vụ, quyền hạn là người đã được nêu ở phần khái niệm các tội phạm về chức vụ. Tuy nhiên, đối với chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, ngoài những người có chức vụ, quyền hạn còn có thể có những người không có chức vụ, quyền hạn là chủ thể của tội phạm nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi dục, người giúp sức còn người thực hành nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Nếu người có chức vụ, quyền hạn phạm tội nhận hối lộ là người có trách nhiệm trong việc giải quyết những yêu cầu của người đưa hối lộ, thì người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi không có trách nhiệm trong việc giải quyết những yêu cầu của người người đưa hối lộ hoặc đối với người khác. Ví dụ Bùi Văn T là Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện đã tác động với Vũ Xuân Đ là Vịên trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện K quyết định đình chỉ vụ án đối với Vũ Đức Q là cháu của Đ phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý. Chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn mới gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi được. Tuy nhiên, khẳng định này chỉ đúng đối với trường hợp vụ án lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi không có đồng phạm, còn trong vụ án có đồng phạm thì có thể có cả những người không có chức vụ, quyền hạn nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi dục, người giúp sức, còn người thực hành trong vụ án có đồng phạm, thì nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Tương tự như đối với một số tội phạm khác, nếu người phạm tội chỉ nhận dưới đồng thì phải là người trước đó đã bị xử lý kỷ luật về hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn được xoá kỷ luật, nay lại có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi thì mới cấu thành tội phạm. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý kỷ luật, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, thì cũng chưa cấu thành tội phạm này. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 283 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi quy định tại các khoản trên là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, đối với những người này họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án với vai trò giúp sức, vì những người này chưa thể trở thành cán bộ, công chức. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 283 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này theo khoản 1 của Điều 283 Bộ luật hình sự, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, cao hơn là chính thể bị sụp đổ. Vì vậy, lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi cùng với tham ô hối lộ được Đảng và Nhà nước ta coi là quốc nạn. Đối tượng tác động của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi cũng là vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau Có ý kiến cho rằng, đối tượng tác động của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, đối tượng tác động của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi chính là người có chức vụ, quyền hạn bị người phạm tội thúc đẩy làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ. Quan điểm này có nhân tố hợp lý hơn, vì tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác chỉ là những thứ mà người phạm tội nhằm tới mục đích và để đạt được mục đích này, thì người phạm tội phải thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn để người này làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, các dấu hiệu thuộc mặt khác quan cũng là những dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi với các tội phạm khác. a. Hành vi khách quan Trước hết, cũng tương tự như tội nhận hối lộ, người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi phải là người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình, chỉ khác nhau ở chỗ người nhận hối lộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm hoặc không làm một việc, còn người lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi lại lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thúc đẩy người khác làm hoặc không làm một việc. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thúc đẩy người khác là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc thúc đẩy người khác làm hoặc không làm một việc; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc thúc đẩy người khác. Thông thường, người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn cao hơn chức vụ, quyền hạn của người bị tác động như cấp trên đối với cấp dưới, nhưng cũng có trường hợp chức vụ, quyền hạn của người phạm tội chỉ ngang bằng hoặc thấp hơn người bị tác động như cùng cấp trưởng hoặc cùng cấp phó; cấp phó đối với cấp trưởng; cấp dưới đối với cấp trên; Cũng có trường hợp chức vụ, quyền hạn của người phạm tội hoàn toàn độc lập với chức vụ, quyền hạn của người bị tác động nhưng lại có mối quan hệ như Cấp uỷ đảng đối với cán bộ các ngành ở một cơ quan, tổ chức nhất Nói chung, người phạm tội là người chức vụ, quyền hạn và người bị tác động bị thúc đẩy cũng là người có chức vụ, quyền hạn, còn mối quan hệ giữa người phạm tội với người bị thúc đẩy không phải là dấu hiệu bắt buộc để xác định hành vi phạm tội của người lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi. Tuy nhiên, muốn thúc đẩy được người khác thì chức vụ, quyền hạn của người phạm tội phải gây được ảnh hưởng đối với người bị tác động. Dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người khác là hành vi sử dụng mối quan hệ giữa mình với người khác, mà mối quan hệ này do chức vụ, quyền hạn đem lại cho người phạm tội, do có chức vụ, quyền hạn nên có ảnh hưởng nhất định đối với người mà người phạm tội tác động, thúc đẩy. Nếu chỉ dùng ảnh hưởng trong lĩnh vực tình cảm, gia đình, họ hàng, bạn bè... không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn thì không phải là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi. Ví dụ Đào Thị X là tình nhân của Trần Mai H là Tổng giám đốc. X đã lợi dụng mối quan hệ này nhận tiền của Đỗ Thuý N để tác động với Trần Mai H nhận N vào làm việc tại công ty. Hành vi của Đào Thị X không phải là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi mà là hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi quy định tại Điều 291 Bộ luật hình sự. Thúc đẩy người khác là làm cho hoạt động của người bị thúc đẩy nhanh hơn theo ý muốn của người thúc đẩy. Tuy nhiên, thuật ngữ thúc đẩy với ý nghĩa là dấu hiệu của tội phạm này còn được hiểu như là một sự tác động người khác người chức vụ, quyền hạn để người này giải quyết theo yêu cầu của người tác động. Vì vậy, có ý kiến cho rằng, việc nhà làm luật dùng thuật ngữ “thúc đẩy” chưa hàm chứa đầy đủ bản chất của hành vi phạm tội mà lẽ ra phải dùng thuật ngữ “tác động” mới chính xác hơn. Tác động là làm cho một đối tượng đó có những biến đổi nhất định, còn thúc đẩy là làm cho hoạt động, phát triển mạnh hơn theo một hướng nhất định nào đó, thường là hướng tốt35. Nếu người phạm tội thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn nhưng là để người có chức vụ, quyền hạn chỉ làm một việc theo đúng tiến độ, đúng chức năng, nhiệm vụ nhưng người thúc đẩy vẫn trục lợi thì hành vi của người thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn vẫn vị coi là hành vi phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, và như vậy, hành vi thúc đẩy quy định trong cấu thành không còn đúng nghĩa của nó nữa, vì không làm cho hoạt động của người bị thúc đẩy nhanh hơn theo yêu cầu của người thúc đẩy. Yếu tố trục lợi được nhà làm luật mô tả như là hành vi nhận hối lộ. “trực tiếp hoặc qua trung gian dã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào”. Do đó việc xác định dấu hiệu khách quan này cũng tương tự như đối với hành vi của người phạm tội nhận hối lộ. Nếu người phạm tội nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác rồi dùng một phần đưa cho người có chức vụ, quyền hạn để người này làm hoặc không làm một việc có lợi cho người đưa tiền, tài sản hoặc lơi ích vật chất khác thì cần phân biệt Nếu người nhận tiền, tài sản của người khác rồi dùng một phần tiền và tài sản đó để đưa cho người có chức vụ, quyền hạn để người này làm hoặc không làm một việc theo yêu cầu của người đưa tiền, tài sản, thì tuỳ trường hợp, người nhận tiền bị tổ chức trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ với vai trò đồng phạm hoặc tội làm môi giới hối lộ về khoản tiền, tài sản mà họ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn và tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi. Nếu người nhận tiền, tài sản của người khác nhưng không có hành vi thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn để người này làm hoặc không làm một việc theo yêu cầu của người đưa tiền, nhưng lại hứa với người đưa tiền, tài sản là sẽ thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn thì hành vi của người nhận tiền là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà không thuộc trường hợp phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi. Nếu người nhận tiền, tài sản của người khác và đưa hết số tiền hoặc tài sản đó cho người có chức vụ, quyền hạn, đồng thời vẫn thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc theo yêu cầu của người đưa tiền thì tuỳ trường hợp mà người phạm tội nhận tiền bị tổ chức trách nhiệm hình sự về tội đưa hối hối lộ với vai trò đồng phạm hoặc tội làm môi giới hối lộ. Không có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi trong trường hợp này. Một dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm này tuy không phải là hành vi khách quan của người phạm tội, đó là các đặc điểm và hành vi của người bị thúc đẩy. Người bị thúc đẩy là người có chức vụ, quyền hạn và khi bị người khác thúc đẩy thì người này đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của mình hoặc làm một việc không được phép làm. Nói chung, đặc điểm và hành vi của người bị thúc đẩy cũng tương tự như các dấu hiệu thuộc về chủ thể và hành vi khách quan của tội nhận hối lộ. Tuy nhiên, chủ thể của tội nhận hối lộ chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm hoặc không làm một việc vì lợi hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ mà không có hành vi làm một việc mà không được phép làm, cũng như không bao gồm người có liên quan trực tiếp đến công việc của họ. Người bị thúc đẩy có thể là người phạm tội nếu hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền cấu thành tội phạm, nhưng cũng có thể không phạm tội nếu hành vi của họ không trái với công vụ và họ không biết được mục đích của người thúc đẩy. Dù người bị thúc đẩy có phải là người phạm tội hay không thì khi xem xét hành vi của họ trong mối quan hệ với hành vi của người lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi cũng cần phải xác định chức vụ, quyền hạn và hành vi của họ khi bị thúc đẩy. b. Hậu quả Cũng như hậu quả của các tội phạm khác, hậu quả của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất cho xã hội. Hậu quả của hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, xét về phương diện các yếu tố cấu thành tội phạm thì không phải là dấu hiệu bắt buộc, tức là, dù hậu quả chưa xảy ra nhưng hành vi vẫn cấu thành tội phạm. Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, nhà làm luật cũng quy định giá trị tài sản mà người phạm tội đã nhận hoặc sẽ nhận làm ranh giới phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm, nhưng không vì thế mà cho rằng, giá trị tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm và nếu chưa nhận được tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị như trên hoặc đã nhận được nhưng giá trị dưới mức quy định của điều luật thì chưa cấu thành tội phạm. Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, nhà làm luật cũng quy định tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chát khác có mà người phạm tội nhận phải có giá trị từ đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn nếu dưới đồng thì phải có thêm những điều kiện như Gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm. Quy định này không có nghĩa là trong mọi trường hợp người phạm tội đã nhận được tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị đồng hoặc dưới đồng có kèm theo điều kiện thì mới cấu thành tội phạm, mà quy định này chỉ đối với trường hợp người phạm tội có ý định nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất có giá trị đồng hoặc dưới đồng và ngay cả với hai trường hợp này nếu người phạm tội chưa nhận được thì hành vi của họ vẫn cấu thành tội phạm nhưng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy, nếu người phạm tội mới có ý định nhận đồng hoặc dưới đồng và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa, nhưng chưa nhận được, thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Nếu người phạm tội nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị dưới đồng ngoài những điều kiện Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm đã nêu ở phần các dấu hiệu thuộc về nhân thân người phạm tội thì còn phải gây hậu quả nghiêm trọng thì mới cấu thành tội phạm. Trong trường hợp này, thì hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi gây ra - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi thực hiện hành vi của mình là cố ý cố ý trực tiếp, tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; không có trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi nào được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì người phạm tội bao giờ cũng mong muốn nhận được tiền, tài sản hoặc lợ ích vật chất khác. Động cơ trục lợi là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nếu người phạm tội không có động cơ trục lợi thì dù có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác thì cũng không cấu thành tội phạm này. Trục lợi ở đây chỉ bao gồm những lợi ích vật chất như tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác mà không bao gồm lợi ích phi vật chất như về tình cảm, về tinh thần hay các lợi ích phi vật chất. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác cũng có dấu hiệu trục lợi nhưng là lợi ích phi vật chất. Ví dụ Vũ Khắc X là vụ trưởng vụ hành chính đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thúc đẩy Trần Văn T vụ trưởng vụ tổ chức cán bộ để T đề bạt Vũ Thị C là nhân viên của X lên chức Phó phòng nghiệp vụ. Để trả ơn X, thị C đã cho X quan hệ tình dục. Điều luật quy định đã nhận hoặc sẽ nhận, nhưng không vì thế mà cho rằng, ý định nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người phạm tội có sau khi thực hiện hành vi phạm tội, cho dù người phạm tội sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác sau khi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm, thì người phạm tội vẫn có ý định nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích của người phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu người phạm tội không có ý định nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác thì dù họ có lợi dụng chức vụ, quyền hạn để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm thì cũng không phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 283 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, có khung hình phạt từ một năm đến sáu năm tù, là tội phạm nghiêm trọng. So với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi quy định tại Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn và nếu so sánh giữa tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi quy định tại Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 thì mức cao nhất và mức thấp nhất của khung hình phạt như nhau. Nhưng căn cứ vào các dấu hiệu quy định tại khoản 1 của Điều 283 thì khoản 1 Điều 283 có lợi cho người phạm tội hơn khoản 1 Điều 228a, vì khoản 1 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định tình tiết “vi phạm nhiều lần” là yếu tố định tội và tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm ” quy định tại khoản 1 Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985, nay khoản 1 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định lại là “đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm” cũng là quy định có lợi cho người phạm tội. Do đó, hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì căn cứ vào các quy định tại khoản 1 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 để xác định hành vi phạm tội, nhưng khi quyết định hình phạt thì vẫn phải áp dụng khoản 1 Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội. Khoản 1 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là sáu năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi mà thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 283 thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, như đã phân tích ở phần các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm, người dưới 16 khó có thể trở thành chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi theo khoản 1 Điều 283 Bộ luật hình sự, nhưng về lý thuyết thì vẫn có thể xảy ra bởi vì người dưới 16 tuổi vẫn có thể lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, trong trường hợp người này giữ một chức vụ nhất định như Lớp trưởng, lớp phó, bí thư đoàn trường... Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi theo khoản 1 Điều 283 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc nếu có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới một năm tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến sáu năm 2. Phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 283 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Nhưng không phải vụ án lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi có tổ chức có những đặc điểm riêng như Người thực hành trong vụ án lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi có tổ chức phải là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn để người này làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm. Người thực hành có thể là người trực tiếp nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác nhưng cũng có thể không trực tiếp nhận mà giao cho người khác nhận. b. Phạm tội nhiều lần Phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi nhiều lần là có từ hai lần lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi trở lên và mỗi lần lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý kỷ luật, phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. c. Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng Đây là trường hợp người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi mà tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng. Nếu tài sản không phải là tiền, thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm nhận hoặc đã hứa nhận, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản hoặc lợi ích vật chất khác thì phải trưng cầu giám định định giá. Điều luật quy định tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng, chứ không quy định người phạm tội đã nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị như trên, nên chỉ cần xác định người phạm tội có ý định nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 283 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã nhận được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc. Trường hợp người phạm tội chưa nhận được tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, thì cũng không vì thế mà cho rằng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, vì điều luật quy định “ đã nhận hoặc sẽ nhận”, nên chỉ cần có thoả thuận là sẽ nhận là tội phạm đã hoàn thành. Đây là đặc điểm khác với một số tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì được coi là phạm tội chưa đạt, nhưng đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi thì dù chưa nhận được tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác thì vẫn coi là tội phạm đã hoàn thành. d. Gây hậu quả nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở khoản 1 của điều luật và các tội phạm khác có quy định tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này là hậu quả nghiêm trọng do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi từ đồng đến dưới đồng. Nếu dưới đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng khác nếu do hành vi nhận hối lộ mà - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 283 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 2 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn khoản 2 Điều 228a. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 283 có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, khi áp dụng khoản 2 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý Nếu hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ đồng đến dưới đồng thì vẫn áp dụng khoản 2 Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985; Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 283 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới sáu năm tù nhưng không được dưới một năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì, khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 283 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới mười lăm năm 3. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 283 Bộ luật hình sự a. Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ Giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng. Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 của điều luật, nếu tài sản không phải là tiền, thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm nhận tài sản đó hoặc đã hứa nhận tài sản đó; chỉ cần xác định người phạm tội sẽ nhận tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 283 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã nhận được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc; nếu người phạm tội chưa nhận được tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, thì cũng không vì thế mà cho rằng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng khác. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Cũng như đối với một số tội phạm khác, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng khác do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi gây ra, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi gây ra - Làm chết hai người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 283 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 3 Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 3 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn khoản 3 Điều 228a. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 283 có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, khi áp dụng khoản 3 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý - Nếu hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ đồng đến dưới đồng thì vẫn áp dụng khoản 3 Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985; - Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật thì cũng chỉ áp dụng khoản 2 điều luật mà không áp dụng khoản 3 của điều luật, vì tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều này” khoản 3 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định nữa. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 283 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới mười ba năm tù nhưng không được dưới sáu năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 Điều 283 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới hai mươi năm tù. Khi cân nhắc để quyết định một mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội, Toà án cần căn cứ vào nguyên tắc đã được nêu ở tội tham ô tài sản 41 4. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 283 Bộ luật hình sự a. Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác giá có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ Giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác từ ba trăm triệu đồng trở lên. Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 của điều luật, nếu là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm người phạm tội nhận hoặc đã hứa nhận; chỉ cần xác định người phạm tội sẽ nhận tiền, tài sản oặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên là thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 4 Điều 283 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã nhận được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc; nếu người phạm tội chưa nhận được, thì cũng không vì thế mà cho rằng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2, điểm b khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi gây ra Làm chết ba người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 283 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 4 Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 4 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt thì không nhẹ hơn và cũng không nặng hơn, nhưng căn cứ vào các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt thì khoản 4 Điều 283 quy định có lợi cho người phạm tội, vì khoản 4 Điều 283 không còn quy định tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này” là yếu tố định khung hình phạt. Mặt khác, khoản 4 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ đồng trở lên”, còn khoản 4 Điều 228a quy định “tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ đồng trở lên” Vì vậy, khi áp dụng khoản 4 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý - Nếu hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác từ đồng trở lên thì vẫn áp dụng khoản 4 Điều 228a Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng khi quyết định hình phạt thì phải căn cứ vào khung hình phạt tại khoản 3 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. - Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 của điều luật thì cũng chỉ áp dụng khoản 3 điều luật mà không áp dụng khoản 4 của điều luật, vì tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này” khoản 4 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định nữa. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 4 Điều 283 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới hai mươi năm tù nhưng không được dưới mười ba năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 4 là khoản 3 Điều 283 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tuy có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, là người có nhân thân xấu, thì có thể áp dụng hình phạt tù chung thân. 5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi Theo quy định tại khoản 5 Điều 283 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị tài sản đã trục lợi. So với quy định tại Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì hình phạt bổ sung đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi quy định tại khoản 5 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi, bổ sung như sau - Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 5 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm”. - Nếu căn cứ vào mức hình phạt thì khoản 5 Điều 283 nhẹ hơn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng căn cứ vào nguyên tắc áp dụng hình phạt này thì khoản 5 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định không có lợi cho người phạm tội vì việc áp dụng hình phạt cấm đảm chức vụ đối với người phạm tội là bắt buộc “bị cấm”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định không bắt buộc Toà án phải áp dụng “có thể bị cấm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 5 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. - Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, thì khoản 5 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 lại quy định “có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị tài sản đã trục lợi”. Như vậy, việc áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội quy định tại khoản 5 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn là bắt buộc nữa. Toà án có thể áp dụng và cũng có thể không áp dụng nếu thấy việc áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội là không cần thiết. Riêng hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản khoản 5 Điều 283 không còn quy định. Do đó, Toà án không được áp dụng hình phạt tịch thu một phạm hoặc toàn bộ tài sản đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý. Nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền, thì được áp dụng khoản 5 Điều 283 Bộ luật hình sự năm 1999. 7. TỘI GIẢ MẠO TRONG CÔNG TÁC Điều 284. Tội giả mạo trong công tác 1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm a Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; b Làm, cấp giấy tờ giả; c Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm a Có tổ chức; b Người phạm tội là người có trách nhiệm lập hoặc cấp các giấy tờ, tài liệu; c Phạm tội nhiều lần; d Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 4. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm.; 5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. Định nghĩa Giả mạo trong công tác là hành vi của một người vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, lợi dụng chức vụ, quyền hạn sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; làm, cấp giấy tờ giả; giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn. Tội giả mạo trong công tác là tội phạm đã được quy định tại Điều 224 Bộ luật hình sự năm 1985. Tội phạm này cũng là loại tội tham nhũng mà người phạm tội có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhưng không phải để chiếm đoạt, cũng không phải để nhận hối lộ hay để gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi mà người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; để làm hoặc cấp giấy tờ giả; để giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn. Tội phạm này, nếu chỉ xét về hành vi khách quan thì gần giống với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn nếu xét về thủ đoạn thì lại gần giống với các tội phạm khác có việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nếu xét về động cơ thì gần giống với các tội có động cơ vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác. So với Điều 224 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều thay đổi. Tuy vẫn cấu tạo thành 4 khoản, nhưng khung hình phạt ở mỗi khoản quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội, hình phạt cao nhất đối với tội phạm này là hai mươi năm tù Điều 224 Bộ luật hình sự năm 1985 hình phạt cao nhất là tù chung thân; bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 điều này”; hình phạt bổ sung quy định ngay trong điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Như đã nêu ở trên, tội phạm này gần giống với một số tội phạm khác có thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn; có động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác và có hành vi gian dối, nên các dấu hiệu của tội phạm này nếu xét về từng khía cạnh cũng tương tự như các dấu hiệu của các tội khác có cùng dấu hiệu mà các dấu hiệu đó đã được phân tích ở từng tôi phạm cụ thể. Tuy nhiên, để theo dõi một cách có hệ thống, chúng ta lần lượt nghiên cứu từng dấu hiệu của tội phạm này, trong đó có dấu hiệu đã được phân tích ở các tội phạm khác. 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội giả mạo trong công tác cũng là các dấu hiệu quan trọng để xác định hành vi phạm tội, là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội phạm này với các tội phạm khác do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Chủ thể của tội giả mạo trong công tác phải đảm bảo các yếu tố điều kiện cần và đủ như độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội giả mạo trong công tác, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này Trước hết, người phạm tội giả mạo trong công tác phải là người có chức vụ, quyền hạn nhất định. Phạm vi chức vụ, quyền hạn của người phạm tội giả mạo trong công tác cũng tương đối rộng. Tuy nhiên, người phạm tội giả mạo trong công tác là người đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; để làm hoặc cấp giấy tờ giả; để giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn khác. Người có chức vụ, quyền hạn là người đã được nêu ở phần khái niệm các tội phạm về chức vụ. Tuy nhiên, đối với tội giả mạo trong công tác còn có thể có những người không có chức vụ, quyền hạn là chủ thể của tội phạm nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi dục, người giúp sức còn người thực hành nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Nếu người có chức vụ, quyền hạn lại lợi dụng chức vụ, quyền hạn tiếp tay cho người khác để sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; để làm hoặc cấp giấy tờ giả; để giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người lợi dụng chức vụ, quyền hạn bị tổ chức trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội tham ô. Chủ thể của tội giả mạo trong công tác là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn mới sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; cấp giấy tờ giả; giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn được. Nếu là người khác thì hành vi giả mạo trên lại cấu thành tội phạm khác chứ không phải là hành vi phạm tội giả mạo trong công tác. Tuy nhiên, khẳng định này chỉ đúng đối với trường hợp vụ án giả mạo trong công tác không có đồng phạm, còn trong vụ án có đồng phạm thì có thể có cả những người không có chức vụ, quyền hạn nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi dục, người giúp sức, còn người thực hành trong vụ án có đồng phạm, thì nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giả mạo trong công tác thuộc trường hợp quy định tại khoản 2. khoản 3 và khoản 4 Điều 284 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp giả mạo trong công tác quy định tại các khoản trên là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, đối với những người này họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án với vai trò giúp sức, vì những người này chưa thể trở thành cán bộ, công chức. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giả mạo trong công tác thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 284 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này theo khoản 1 của Điều 284 Bộ luật hình sự, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội giả mạo trong công tác quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội giả mạo trong công tác là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín. Vì vậy, giả mạo trong công tác là tội phạm tham nhũng là đối tượng bị xử lý nghiêm. Đối tượng tác động của tội giả mạo trong công tác là giấy tờ, tài liệu, chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn. Người phạm tội đã tác động vào làm cho các tài liệu, giấy tờ, chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn bị sai lệch, không đúng với thực tế. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm Đối với tội giả mạo trong công tác, các dấu hiệu thuộc mặt khác quan cũng là những dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội giả mạo trong công tác với các tội phạm khác. a. Hành vi khách quan Trước hết, người phạm tội phải là người lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc giả mạo trong công tác; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc giả mạo. Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn là dấu hiệu để phân biệt với một số tội phạm khác cũng có những hành vi khách quan như đói với tội phạm này như tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức Điều 266; tội làm con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức Điều 267, nhưng đối với các tội phạm này người phạm tội không lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Đối với tội giả mạo trong công tác, thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn còn là tiền đề để người phạm tội thực hiện một trong những hành vi khách quan. Theo điều văn của điều luật thì người phạm tội thực hiện một trong các hành vi khách quan sau đây - Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu. Nội dung của hành vi này gồm hai hành vi Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ và sửa chữa, làm sai lêch nội dung tài liệu. Sửa chữa, làm sai nội dung giấy tờ là hành vi tẩy xoá, viết thêm, bỏ bớt hoặc bằng thủ đoạn khác làm cho nội dung giấy tờ đó không còn đúng với nội dung vốn có của nó. Sửa chữa, theo hướng tích cực thì sửa sai thành đúng, nhưng hành vi sửa chữa ở đây được hiểu là sửa đúng thành sai với động cơ xấu. hậu quả của việc sửa chữa là làm sai lệch nội dung giấy tờ đó, làm cho nội dung của giấy tờ đó không đúng với thực tế kách quan. Giấy tờ là giấy có mang một nội dung nhất định và có một giá trị theo quy định như giấy phép, giấy chứng nhận, công văn... Nói chung, giấy tờ là đối tượng tác động của tội phạm này bao gồm các loại giấy mang tiêu đề nhất định và có giá trị nhất định căn cứ vào nội dung của loại giấy tờ đó, chứ không bao gồm tất cả các loại giấy tờ. Giấy tờ bị sửa chữa bao gồm nhiều loại, nhưng chủ yếu là các loại văn bản do cơ quan, tổ chức ban hành có liên quan đến quyền và lợi ích của cá nhân, tập thể, cơ quan, tổ chức mà người phạm tội quan tâm. Ví dụ Một chuyên viên của Bộ thương mại sửa chữa giấy phép nhập khẩu quota với số lượng từ 500 xe máy lên xe máy cho một công ty; một cán bộ tổ chức sửa chữa năm sinh cho một cán bộ và đề nghị bổ nhiệm cán bộ này vào chức vụ nhất định; một cán bộ kiểm lâm đã sửa chữa biên bản thu giữ lâm sản để người vi phạm không bị xử lý... Sửa chữa, làm sai lệch nội dung tài liệu là hành vi thêm, bớt hoặc bằng thủ đoạn khác làm cho nội dung của tài liệu đó không đúng với nội dung vốn có của nó, sửa đúng thành sai như đối với việc sửa chữa giấy tờ. Tài liệu và giấy tờ, xết về một khía cạnh nào đó thì cũng như nhau, trong tài liệu có giấy tờ và ngược lại trong giấy tờ cũng có tài liệu, nhưng khi nói đến tài liệu là muốn nói đến nội dung của một loại giấy tờ như một văn bản giúp cho việc tìm hiểu một vấn đề gì, tài liệu học tập, tài liệu tham khảo, thu thập tài liệu để viết luận văn tốt nghiệp... Tài liệu có thể tồn tại dưới dạng giấy tờ, nhưng cũng có thể tồn tại dưới các dạng khác như trên mạng internet, băng ghi hình, băng ghi âm, có khi chỉ là một danh lam thắng cảnh, một khu di tích lich sử, một tấm bia. nhưng chỉ những tài liệu có liên quan đến hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người phạm tội bị sửa chữa mới là đối tượng tác động của tội phạm này. - Làm, cấp giấy tờ giả Nội dung của hành vi này cũng gồm hai hành vi khác nhau, đó là làm giấy tờ giả và cấp giấy tờ giả. Làm giấy tờ giả là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm ra một trong các giấy tờ mang tiêu đề nhất định và có giá trị nhất định, nhưng nội dung không đúng với thực tế khách quan. Giấy tờ giả là giấy tờ không có thật, tức là cơ quan Nhà nước không ban hành loại giấy tờ đó hoặc có ban hành nhưng nội dung không đúng với giấy tờ mà người phạm tội làm. Điều luật chỉ quy định làm giấy tờ giả, mà không quy định làm tài liệu giả, nên trong trường hợp người phạm tội có hành vi làm tài liệu giả thì cần phải xác định tài liệu đó có tồn tại ở dạng giấy tờ không, nếu không tồn tại ở dạng giấy tờ thì không phải là đối tượng tác động của tội phạm này. Cấp giấy tờ giả là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để cấp giấy tờ cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân mà người phạm tội biết chắc đó là giấy tờ giả. Hành vi cấp giấy tờ giả cho người khác, có thể cũng là hành vi làm giấy tờ giả rồi cấp giấy đó cho người mà mình quan tâm, nhưng cũng có thể người phạm tội chỉ thực hiện việc cấp giấy tờ giả đó, còn việc làm ra nó lại do một người khác thực hiện. Thông thường, người làm ra giấy tờ giả cũng là người cấp giấy tờ giả đó. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người làm và người cấp khác nhau. Ví dụ Đô Ca Th là Thẩm phán, vụ án chưa xét xử đã yêu cầu Nguyễn Hữu Ch là Trưởng phòng nghiệp vụ cấp trích lục bản án cho Phạm Thị N nguyên đơn trong vụ án ly hôn, để N kịp xuất cảnh ra nước ngoài. Trong trường hợp này, Th là người làm giấy tờ giả, còn Ch là người cấp giấy tờ giả. Người cấp giấy tờ giả phải là người có quyền cấp giấy đó chứ không phải bằng hành động như chuyển, đưa giấy tờ đó cho người khác. - Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn là hành vi ký giả hoặc bằng những thủ đoạn khác như in, photocopy... chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn. Hành vi giả mạo chữ ký của người giả mạo trong công tác có đặc điểm khác với hành vi giả mạo chữ ký quy định trong một số tội phạm khác ở chỗ Người phạm tội giả mạo trong công tác lại chính là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để gải mạo chữ ký của người khác mà người này cũng là người có chức vụ, quyền hạn. Vấn đề đặt ra là Vì sao người chức vụ, quyền hạn lại phải giả mạo chữ ký của người khác, mà lại phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn mới giả mạo được chữ ký của người khác ? Trước hết người có chức vụ, quyền hạn phải giả mạo chữ ký của người khác là vì chữ ký của người phạm tội không có giá trị hoặc không phù hợp với hình thức và nội dung giấy tờ, tài liệu. Ví dụ Quyết định thay đổi biện pháp tạm giam phải do Chánh án ký mới có giá trị, nhưng Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà, vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân đã ký giả chứ ký của Chánh án để trả tự do cho người đang bị tạm giam. Chánh phòng Uỷ ban nhân dân huyện lợi dụng chức vụ, quyền hạn để ký giả chữ ký của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện thu hồi đất của công dân. Nói chung, người phạm tội khi giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn họ không cần phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vì việc giả mạo chữ ký của người khác thì ai cũng làm được không cần phải người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn mới làm được. Tuy nhiên, nếu không phải là ký giả mà bằng thủ đoạn khác giả mạo chức ký của người có chức vụ, quyền hạn thì người phạm tội phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn mới có thể giả mạo được. Hành vi giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn cũng là một trong những hành vi làm sai lệch nội dung giấy tờ, nhưng vì đây là hành vi giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn nên chỉ cần có hành vi giả mạo chữ ký là đã cấu thành tội phạm giả mạo trong công tác rồi. b. Hậu quả Cũng như hậu quả của các tội phạm khác, hậu quả của tội giả mạo trong công tác là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất cho xã hội. Hậu quả của hành vi giả mạo trong công tác không phải là dấu hiệu bắt buộc, tức là, dù hậu quả chưa xảy ra nhưng hành vi vẫn cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, nếu hậu quả do hành vi giả mạo trong công tác gây ra là hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội bị tổ chức trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội giả mạo trong công tác thực hiện hành vi của mình là cố ý cố ý trực tiếp, tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Đối với tội phạm giả mạo trong công tác, động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, nếu người phạm tội có các hành vi khách quan nêu ở trên nhưng không vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác thì hành vi giả mạo trong công tác chưa cấu thành tội phạm. Động cơ phạm tội là cái bên trong thuộc mặt chủ quan của tội phạm và người phạm tội không bao giờ thừa nhận nếu không có căn cứ. Tuy nhiên, việc xác định động cơ của người phạm tội không phải khó tới mức không xác định được. Ngay cả việc xác định lỗi của người phạm tội cũng là một việc khó, nhưng về lý luận, ý thức chủ quan của con người bao giờ cũng được thể hiện bằng những hành vi và các dấu hiệu khách quan. Người phạm tội vì vụ lợi mà giả mạo trong công tác là vì lợi ích của bản thân mình hoặc của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình công tác. Ví dụ Nguyễn Ngọc H là giám đốc Công ty xuất nhập khẩu, vì lợi ích của công ty mình, nên đã sửa chữa giấy phép nhập khẩu để nhập hàng tránh sự phát hiện của Hải quan. Người phạm tội vì động cơ cá nhân khác là vì lợi ích của người khác mà người phạm tội quan tâm mà không vì lợi ích của cá nhân mình hoặc cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên. Ví dụ Vũ Hồng M là trưởng phòng thi hành án dân sự đã sửa chữa bản án có hiệu lực pháp luật theo hướng có lợi cho Đặng Xuân D là em vợ của M. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội giả mạo trong công tác không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 284 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội giả mạo trong công tác, có khung hình phạt từ một năm đến năm năm tù, là tội phạm nghiêm trọng. So với tội giả mạo trong công tác quy định tại Điều 224 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn và nếu so sánh giữa tội giả mạo trong công tác quy định tại Điều 224 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 284 nhẹ hơn Điều 224 vì mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại Điều 284 là tù hai mươi năm, còn mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại Điều 224 là tù chung thân. Do đó, hành vi phạm tội giả mạo trong công tác thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội giả mạo trong công tác theo khoản 1 Điều 284 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc nếu có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới một năm tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến năm năm tù. 2. Phạm tội giả mạo trong công tác thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 284 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, giả mạo trong công tác có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Nhưng không phải vụ án giả mạo trong công tác có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên phạm tội giả mạo trong công tác có tổ chức có những đặc điểm riêng như Người thực hành trong vụ án giả mạo trong công tác có tổ chức phải là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để giả mạo trong công tác. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện các hành vi khách quan quy định tại khoản 1 Điều 284 Bộ luật hình sự. b. Người phạm tội là người có trách nhiệm lập hoặc cấp các giấy tờ, tài liệu Trường hợp phạm tội này là trường hợp đối với người có trách nhiệm lập hoặc cấp các giấy tờ, tài liệu thật đúng với quy định của Nhà nước, nhưng lại lập hoặc cấp các giấy tờ, tài liệu có nội dung sai lệch với nội dung thật. Người có trách nhiệm lập các giấy tờ, tài liệu là người được giao lập các giấy tờ, tài liệu nhưng đã lợi dụng nhiệm vụ được giao để làm sai lệch nôi dung thật của các giấy tờ tài liệu. Ví dụ Trịnh Kim A là cán bộ của Sở giáo dục, đào tạo tỉnh T, được phân công viết Bằng tốt nghiệp phổ thông trung học. Lợi dụng nhiệm vụ được giao, Trịnh Kim A đã thông đồng với một số người khác làm 50 bằng tốt nghiệp giả để trục lợi. Người có trách nhiệm cấp các giấy tờ, tài liệu là người được giao cấp các giấy tờ, tài liệu nhưng đã lợi dụng nhiệm vụ được giao để làm sai lệch nội dung thật của các giấy tờ tài liệu và cấp cho người khác. Ví dụ Trần Văn K là cán bộ của Toà án huyện Q, được giao cấp trích lục bản án. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, K đã làm giả trích lục bản án ly hôn rồi cấp cho Trần Xuân P là anh họ của K đang làm ăn ở nước ngoài, để Trần Xuân P dùng trích lục bản án ly hôn giả này kết hôn với người khác ở nước ngoài. c. Phạm tội nhiều lần Phạm tội giả mạo trong công tác nhiều lần là có từ hai lần giả mạo trong công tác trở lên và mỗi lần giả mạo trong công tác đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý kỷ luật, phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. Trong trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi khách quan quy định tại khoản 1 của điều luật và mỗi hành vi đó nếu tách ra thì cũng đã cấu thành tội phạm và mỗi hành vi người phạm tội thực hiện vào những thời điểm khác nhau thì cũng coi là phạm tội nhiều lần. Ví dụ Ngày 1-10-2000, Nguyễn Đức Th cấp giấy tờ giả, đến ngày 10-10-2000, Th lại giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, nếu trong cùng một thời gian, người phạm tội có nhiều hành vi khách quan quy định tại khoản 1 của điều luật thì không coi là phạm tội nhiều lần. Ví dụ Ngày 15-1-2002, Trần Quốc T vừa ký giả chức ký của người có chức vụ, quyền hạn vừa cấp giấy tờ giả có chữ kỹ giả cho người khác. d. Gây hậu quả nghiêm trọng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở các tội phạm khác. Tuy nhiên, đối với tội giả mạo trong công tác, chưa có hướng dẫn cụ thể thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng. Do đó việc xác định thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi giả mạo trong công tác gây ra, phải căn cứ vào hướng dẫn về tình tiết này đối với các tội phạm khác. Hiện nay, các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương mới hướng dẫn áp dụng một số chương đối với một số tội phạm. Về tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, mỗi tội phạm tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khác nhau nên hậu quả do hành vi phạm tội gây ra cũng khác nhau. Việc đánh giá hậu quả như thế nào là nghiêm trọng do hành vi phạm tội gây ra phải tuỳ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể. Đối với tội giả mạo trong công tác, nếu căn cứ vào hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 thì không phù hợp, nhưng trong khi chưa có hướng dẫn cụ thể, chúng tôi chỉ nêu cách xác định thế nào là hậu quả nghiêm trọng đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 để tham khảo. Theo thông tư này, được coi là gây hậu quả nghiêm trọng nếu - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 284 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 224 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi giả mạo trong công tác xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 2 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 284 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới ba năm tù nhưng không được dưới một năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì, khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 284 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2, thì có thể bị phạt tới mười lăm năm tù. 3. Giả mạo trong công tác thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 284 Bộ luật hình sự Khoản 3 Điều 284 Bộ luật hình sự chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt đó là, giả mạo trong công tác gây hậu quả rất nghiêm trọng. Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi giả mạo trong công tác lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng khác. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi giả mạo trong công tác gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Cũng như đối với một số tội phạm khác, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng khác do hành vi giả mạo trong công tác gây ra, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi giả mạo trong công tác gây ra - Làm chết hai người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 284 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, cũng là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 3 Điều 224 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 3 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Ngoài ra, khoản 3 Điều 284 có thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội, vì khoản 3 Điều 224 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 điều này” là yếu tố định khung hình phạt, còn khoản 3 Điều 284 không quy định tình tiết này là yếu tố định khung hình phạt nữa. Vì vậy, hành vi giả mạo trong công tác xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 3 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi áp dụng khoản 3 của điều luật cần chú ý Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật thì cũng chỉ áp dụng khoản 2 điều luật mà không áp dụng khoản 3 của điều luật, vì tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều này” khoản 3 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định nữa. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 284 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới ba năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới mười lăm năm tù. 4. Giả mạo trong công tác thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 284 Bộ luật hình sự Khoản 4 Điều 284 Bộ luật hình sự cũng chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt đó là “giả mạo trong công tác gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2,khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ hậu quả do hành vi giả mạo trong công tác gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi giả mạo trong công tác gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi giả mạo trong công tác gây ra Làm chết ba người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 284 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 4 Điều 224 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 4 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn và có lợi cho người phạm tội, vì khoản 4 Điều 284 không còn quy định tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này” là yếu tố định khung hình phạt. Vì vậy, hành vi phạm tội giả mạo trong công tác được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì áp dụng khoản 4 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 của điều luật thì cũng chỉ áp dụng khoản 3 điều luật mà không áp dụng khoản 4 của điều luật, vì tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này” khoản 4 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định nữa. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 4 Điều 284 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới mười hai năm tù nhưng không được dưới bảy năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, là người có nhân thân xấu, thì có thể bị phạt tới hai mươi năm tù. 5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi Theo quy định tại khoản 5 Điều 284 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. So với quy định tại Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì hình phạt bổ sung đối với tội giả mạo trong công tác quy định tại khoản 5 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi, bổ sung như sau - Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 5 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm”. - Nếu căn cứ vào mức hình phạt thì khoản 5 Điều 284 nhẹ hơn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng căn cứ vào nguyên tắc áp dụng hình phạt thì khoản 5 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định không có lợi cho người phạm tội vì việc áp dụng hình phạt cấm đảm chức vụ đối với người phạm tội là bắt buộc “bị cấm”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định không bắt buộc Toà án phải áp dụng “có thể bị cấm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 5 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Về hình phạt tiền, Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 và khoản 5 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 không có gì thay đổi, nên hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì áp dụng Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với bị cáo. MỤC B CÁC TỘI PHẠM KHÁC VỀ CHỨC VỤ 8. TỘI THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG Điều 285. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng 1. Người nào vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 144, 235 và 301 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm. 3. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là tội phạm đã được quy định Điều 220 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, do yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, nên Quốc hội đã hai lần sửa đổi bổ sung vào ngày 12-8-1991 và ngày 22-12-1992 theo hướng nghiêm khắc hơn. Tội phạm này, nếu chỉ xét về hành vi khách quan và ý thức chủ quan thì giống với tội “thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước” Điều 144, tội “ thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng” Điều 235 và tội “thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn” Điều 301 chỉ khác với các tội phạm này ở hậu quả, ở đối tượng tác động. Cũng chính vì vậy, điều văn của điều luật quy định “nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 144, 235 và 301 của Bộ luật này”. So với Điều 220 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 không có thay đổi lớn, chỉ bổ sung loại hình phạt cải tạo không giam giữ và thêm trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng ở khoản 2 của điều luật, đồng thời quy định hình phạt bổ sung ngay trong điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Như đã nêu ở trên, tội phạm này gần giống với một số tội phạm khác có hành vi thiếu trách nhiệm, nên các dấu hiệu của tội phạm này nếu chỉ xét về hành vi khách quan và ý thức chủ quan thì cũng tương tự như các tội thiếu trách nhiệm quy định ở các điều 144, 235 và 301. Trong đó, Điều 144 chúng tôi đã phân tích trong cuốn “ Bình luận Bộ luật hình sự 1999- tập 2”46 Tuy nhiên, để theo dõi một cách có hệ thống, chúng ta lần lượt nghiên cứu từng dấu hiệu của tội phạm này. 1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm Cũng như đối với tội “thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước”, chủ thể của tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” cũng được coi là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Việc xác định tư cách chủ thể của tội phạm này là việc làm đầu tiên khi xác định hành vi phạm tội. Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ khác, người có chức vụ, quyền hạn là người đã được phân tích ở phần khái niệm về chức vụ. Tuy nhiên, đối với tội phạm này khác với các tội thiếu trách nhiệm quy định tại các Điều 144, 235 và 301 Bộ luật hình sự ở chỗ, trách nhiệm của người phạm tội là trách nhiệm gián tiếp đối với hậu quả xảy ra hành vi thiếu trách nhiệm không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả nghiêm trọng. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng với ba trường hợp thiếu trách nhiệm quy định tại các Điều 144, 235 và 301 Bộ luật hình sự. Mặc dù chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biêt, nhưng điều khẳng định này cũng chỉ đúng đối với trường hợp vụ án không có đồng phạm, nếu vụ án có đồng phạm thì chỉ yêu cầu người thực hành phải là người có chức vụ, quyền hạn, còn những người đồng phạm khác không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án, thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 285 Bộ luật hình sự, vì trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, đối với những người này họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án với vai trò giúp sức, vì những người này chưa thể trở thành người có chức vụ, quyền hạn. Người dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; gây thất thoát, lãng phí nghiêm trọng đến tài sản của cơ quan, tổ chức; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức mình bị thoái hoá biến chất 3. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Có thể nói người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là thiếu trách nhiệm, bản thân của hành vi này đã phản ảnh bản chất của tội phạm. Nhưng biểu hiện của hành vi thiếu trách nhiệm lại không phải giống nhau nó tuỳ thuộc vào nhiệm vụ được giao và tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra hậu quả. Hành vi thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý, điều hành của người có chức vụ, quyền hạn được biểu hiện như Vi phạm các nguyên tắc, chính sách, chế độ liên quan đến việc quản lý Nhà nước, quản lý con người, quản lý tài sản. Các nguyên tắc, chế độ có liên quan đến việc quản lý Nhà nước có thể là là các chế độ chính sách trên phạm phi toàn quốc, từng địa phương, từng ngành, từng lĩnh vực. Các nguyên tắc, chế độ có liên quan đến việc quản lý con người là nguyên tắc chế độ quản cán bộ, công chức hoặc thành viên trong một cơ quan, tổ chức; có thể là quy chế, chỉ thị, nghị quyết, nghị định... về công tác quản lý cán bộ, công chức Các nguyên tắc, chế độ có liên quan đến việc quản lý tài sản có thể là các nguyên tắc, chế độ quản lý kinh tế, nhưng cũng có thể chỉ là nguyên tắc, chế độ về hành chính nhưng có liên quan quản lý tài sản, đôi khi chỉ là một bản nội quy cơ quan nếu vi phạm mà gây hậu quả nghiêm trọng thì cũng bị coi là thiếu trách nhiệm. Thiếu trách nhiệm là không làm hoặc làm không hết trách nhiệm được giao nên mới gây ra hậu quả, nếu làm tròn trách nhiệm được giao thì không thể gây ra hậu quả. Trường hợp đã làm hết trách nhiệm mà hậu quả vẫn xảy ra thì không phải là thiếu trách nhiệm và không phải là hành vi phạm tội này dù hậu quả gây ra rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ Ông Đào Ngọc H là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã giao cho Bùi Văn T là Phó chủ tịch đại diện cho bên A ký hợp đồng với Công ty xây dựng M sửa chữa Trụ sở Uỷ ban nhân dân xã với tổng giá trị là đồng. Trong quá trình thi công, ông H đã thường xuyên yêu cầu T báo cáo tình hình thực hiện hợp đồng, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện hợp đồng. Việc thực hiện đang tiến triển thuận lợi thì đột nhiên ông H bị bệnh phải vào Bệnh viện tỉnh đièu trị. Trong thời gian nằm bệnh viện, ông H yêu cầu T thường xuyên báo cáo tình hình thực hiện hợp đồng cho ông nghe, nhưng T đã móc ngoặc với bên B nâng khống một số hạng mục công trình rút tiền chia nhau. Sau khi nghiệm thu công trình dưa vào sử dụng được 6 tháng thì bị sập một góc làm chết một người và bị thương 2 người với tỷ lệ thương tật mối người là 35%. Mặc dù là người đứng đầu, nhưng ông H đã làm hết trách nhiệm của mình, nên không thể coi việc làm của ông H là thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Thực tiễn xét xử cho thấy, hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng bị coi là hành vi phạm tội thường là những hành vi thiếu yếu tố cấu thành tội phạm khác hoặc không chứng minh được động cơ, mục đích phạm tội. Ví dụ Trong vụ án Nguyễn Ngọc Lâm, một số cán bộ kiểm hoá thuộc Cục hải quan tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã không làm tròn trách nhiệm không kiểm hoá hoặc kiểm hoá qua loa để Nguyễn Ngọc Lâm buôn lậu trót lọt một lượng lớn xe ô tô. Trong quá trình điều tra, không chứng minh được các cán bộ Hải quan này nhận hối lộ của Nguyễn Ngọc Lâm, nên chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự họ về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. b. Hậu quả Hậu quả của tội phạm này là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm là một bộ phân hợp thành tội danh, đó là hậu quả nghiêm trọng. Nếu hậu quả gây ra rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của con người; những thiệt hại về tài sản, uy tín của cơ quan, tổ chức và những thiệt hại phi vật chất khác. Hành vi thiếu trách nhiệm gây ra hậu quả nghiêm trọng, được xác định như là một nguyên nhân gián tiếp. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội phạm tội này với một số tội phạm khác có hành vi thiếu trách nhiệm là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả như tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra, nhưng tham khảo hướng dẫn của liên ngành về các tội xâm phạm sơ hữu, thì có thể coi hậu quả nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra nếu - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng Các hướng dẫn trên, có thể áp dụng đối với hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được thực hiện do vô ý. Các dấu hiệu về vô ý phạm tội được quy định tại Điều 10 Bộ luật hình sự. Có hai trường hợp vô ý phạm tội Trường hợp thứ nhất là người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; khoa học luật hình sự gọi trường hợp vô ý phạm tội này là “vô ý vì quá tự tin”. Trường hợp thứ hai là người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả , mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước. Khoa học luật hình sự gọi trường hợp vô ý phạm tội này là “vô ý vì cẩu thả”. Cả hai trường hợp vô ý trên, người phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng đều có thể mắc phải tuỳ thuộc vào chức vụ, quyền hạn của họ và hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra hậu quả. Việc xác định lỗi vô ý gây hậu quả nghiêm trọng của người phạm tội là bắt buộc, nhưng không bắt buộc phải xác định người phạm tội do vô ý vì quá tự tin hay vô ý vì cẩu thả. Động cơ phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Đây là đặc điểm khác với một số tội phạm khác mà người phạm tội có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Do đó, khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, nếu cần xác định động cơ phạm tội cũng chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt chứ không có ý nghĩa định tội. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. So với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 220 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì khoản 1 Điều 285 có quy định hình phạt cải tạo không giam giữ và nếu so sánh Điều 220 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999, thì Điều 285 cũng là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, đối với hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện,xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi áp dụng khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt sáu tháng tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới 5 năm tù. 2. Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 285 Bộ luật hình sự Nhà làm luật quy định hai tình tiết có nội dung như nhau nhưng lại có tính chất và mức độ nghiêm trọng khác nhau là yếu tố định khung hình phạt, đó là Gây hậu quả rất nghiêm trọng và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Nếu xét về kỹ thuật lập pháp thì việc quy định này chưa khoa học, không chỉ đối với tội phạm này mà chúng ta còn thấy ở nhiều tội phạm khác, nhà làm luật cũng quy định như vậy như Khoản 3 của Điều 281, khoản 3 của Điều 282.... Tuy nhiên, thực tiễn xét xử, mặc dù hai tình tiết này đều được quy định trong cùng một khung hình phạt, nhưng khi quyết định hình phạt Toà án vẫn phải phân biệt trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng với trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để áp dụng một hình phạt tương xứng đối với hậu quả mà người phạm tội gây ra. a. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra - Làm chết hai người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm Đây là hướng dẫn đối với các tội xâm phạm sơ hữu, trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây thì có thể tham khảo hướng dẫn này để xác định hành vi thiếu trách nhiệm gây ra hậu quả rất nghiêm trọng. b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng và gây hậu quả rất nghiêm trọng, chỉ khác ở chỗ Trường hợp phạm tội này, hậu quả do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra - Làm chết ba người trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 285 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc nếu có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể và hậu quả gây ra chỉ là hậu quả rất nghiêm trọng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới ba năm tù, nhưng không được dưới sáu tháng tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể hoặc chỉ là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46, là người đã bị xử lý nhiều lần về hành vi thiếu trách nhiệm nhưng vẫn tái phạm, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì có thể bị phạt đến 12 năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng Theo quy định tại khoản 3 Điều 285 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm. So với quy định tại Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì hình phạt bổ sung đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 3 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi, bổ sung như sau - Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 3 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm”. - Nếu căn cứ vào mức hình phạt thì khoản 3 Điều 285 nhẹ hơn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng căn cứ vào nguyên tắc áp dụng hình phạt này thì khoản 3 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định không có lợi cho người phạm tội vì việc áp dụng hình phạt cấm đảm chức vụ đối với người phạm tội là bắt buộc “bị cấm”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định không bắt buộc Toà án phải áp dụng “có thể bị cấm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 3 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. 9. TỘI CỐ Ý LÀM LỘ BÍ MẬT CÔNG TÁC; TỘI CHIẾM ĐOẠT, MUA BÁN HOẶC TIÊU HUỶ TÀI LIỆU BÍ MẬT CÔNG TÁC Điều 286. Tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác 1. Người nào cố ý làm lộ bí mật công tác hoặc chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 80 và Điều 263 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Do điều luật quy định hai tội danh độc lập đều xâm phạm đến cùng một khách thể là bí mật công tác, nhưng do hành vi khách quan khác nhau. Đây cũng là vấn đề có liên quan đến kỹ thuật làm luật. Lẽ ra, nhà làm luật phải quy định hai tội phạm này ở hai điều luật khác nhau, nhưng do kỹ thuật làm luật nên hai tội này được quy định trong cùng một điều luật. Do đó, khi bình luận, chúng tôi phân tích các dấu hiệu cấu thành của từng tội để tiện theo dõi. 9a. TỘI CỐ Ý LÀM LỘ BÍ MẬT CÔNG TÁC Định Nghĩa Cố ý làm lộ bí mật công tác là nhận thức rõ hành vi của mình là làm lộ bí mật công tác, thấy trước được hậu quả của hành vi tất yếu hoặc có thể làm lộ bí mật công tác, mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Tội cố ý làm lộ bí mất công tác là tội phạm đã được quy định tại Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985. Trong quá trình thi hành Bộ luật hình sự năm 1985, tội phạm này không có sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, so với Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội phạm này chỉ sửa đổi, bổ sung loại hình phạt cải tạo không giam giữ từ một năm lên ba năm và hình phạt bổ sung được quy định trong cùng một điều luật, còn các dấu hiệu cấu thành tội phạm, khung hình phạt vẫn như Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985. Tội phạm này thực tế xảy ra nhiều, nhưng việc truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi cố ý làm lộ bí mật công tác lại rất ít, mà chủ yếu xử lý bằng hình thức kỷ luật hoặc xử phạt hành chính. Theo báo cáo thống kê hàng năm của ngành Toà án nhân dân thì việc xét xử loại tội phạm này hầu như không có. Việc các cơ quan tiến hành tố tụng có truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi cố ý làm lộ bí mật công tác hay không, điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng nhà làm luật vẫn quy định hành vi này là hành vi phạm tội là rất cần thiết, vì thực tế, hành vi này đã và đang xảy ra nhiều, có trường hợp rất nghiêm trọng gây thiệt hại nhiều mặt cho cơ quan, tổ chức. A1. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Theo điều văn của điều luật, thì tội phạm này gần giống với tội làm gán điệp và tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước quy định ở các điều 80 và Điều 263 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, mỗi tội phạm có những dấu hiệu riêng biệt để phân biệt. Nếu ở tội làm gián điệp quy định tại Điều 80 Bộ luật hình sự, người phạm tội cố ý cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài là để nước ngoài sử dụng chống nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì ở tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước quy định ở Điều 263 Bộ luật hình sự, người phạm tội không nhằm chống nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhưng đối với tội cố ý làm lộ bí mật công tác, người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn, trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao đã cố ý làm lộ bí mật công tác. Có thể nói, tội cố ý làm lộ bí mật công tác gần giống với tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước quy định tại Điều 263 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ Người phạm tội có ý làm lộ bí mật công tác là người có chức vụ, quyền hạn làm lộ những thông tin liên quan đến việc thi hành nhiệm vụ của mình, còn người phạm tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước là người không có chức vụ, quyền hạn hoặc nếu có chức vụ, quyền hạn nhưng những bí mật Nhà nước mà họ làm lộ không liên quan đến nhiệm vụ của họ. 1a. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ khác, chủ thể của tội “cố ý làm lộ bí mật công tác” cũng được coi là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức trong khi thi hành công vụ mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Việc xác định tư cách chủ thể của tội phạm này có ý nghĩa phân biệt với tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước quy định tại Điều 263 Bộ luật hình sự. Người có chức vụ, quyền hạn là người đã được phân tích ở phần khái niệm về chức vụ. Tuy nhiên, đối với tội phạm này, người có chức vụ, quyền hạn đã cố ý làm lộ bí mật trong phạm vi công tác của mình. Nếu bí mật đó không thuộc phạm vi công tác của mình mà người phạm tội biết được và đã cố ý làm lộ bí mật đó thì thuộc trường hợp quy định tại Điều 80 hoặc Điều 263 Bộ luật hình sự. Ví dụ Trần Mai H với tư cách là tổng biên tập một tờ báo đã trực viết bài và cho đăng nội dung công văn số 1333 ngày 19-8-1996 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gửi Bộ nội vụ nay là Bộ công an nhằm bênh vực cho một tên tội phạm nguy hiểm. Công văn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã được đóng dấu mật. mặc dù Trần Mai H là người có chức vụ, quyền hạn nhưng những thông tin bí mật mà H làm lộ không liên quan đến trách nhiệm của H, nên hành vi của H không phải là hành vi cố ý làm lộ bí mật công tác mà là hành vi cố ý làm lộ bí mật Nhà nước qu định tạ Điều 263 Bộ luật hình sự. Mặc dù chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biêt, nhưng điều khẳng định này chỉ đúng đối với trường hợp vụ án không có đồng phạm, nếu vụ án có đồng phạm thì chỉ yêu cầu người thực hành phải là người có chức vụ, quyền hạn, còn những người đồng phạm khác không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội cố ý làm lộ bí mật công tác cả khoản 1 và khoản 2 của điều luật không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 2a. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội cố ý làm lộ bí mật công tác là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức liên quan đến việc bảo mật của Nhà nước; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, thậm chí gây ra tác hại rất lớn, để người khác lợi dụng chống lại chế độ, gây mất đoàn kết hoặc đối phó với các chủ trương chính sách trước khi được thi hành. Đối tượng tác động của tội phạm này được nêu ngay trong cấu thành tội phạm, đó là bí mật công tác. Bí mật công tác cũng là bí mật Nhà nước, nhưng được gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chứvu và gắn liền với nhiệm vụ công tác của người có chức vụ, quyền hạn. Theo quy định tại Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước thì, những tin tức trong phạm vi sau đây thuộc độ tuyệt mật 1- Kế hoạch chiến lược phòng thủ đất nước; kế hoạch động viên đối phó với chiến tranh; các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh có ý nghĩa quyết định khả năng phòng thủ đất nước; 2- Các chủ trương, chính sách về đối nội, đối ngoại chưa công bố hoặc không công bố. Những tin tức của nước ngoài hoặc của các tổ chức quốc tế chuyển giao cho Việt Nam mà theo yêu cầu của bên giao hoặc được Hội đồng bộ trưởng xác định thuộc độ tuyệt mật; 3- Tổ chức và hoạt động tình báo, phản gián; 4- Mật mã quốc gia; 5- Dự trữ chiến lược quốc gia; các số liệu dự toán, quyết toán ngân sách Nhà nước về những lĩnh vực chưa công bố hoặc không công bố; kế hoạch phát hành tiền tệ, khoá an toàn của từng mẫu tiền; phương án, kế hoạch thu đổi tiền chưa công bố; 6- Các khu vực cấm mà Hội đồng bộ trưởng xác định thuộc độ tuyệt mật. Những tin tức trong phạm vi sau đây thuộc độ tối mật 1- Các cuộc đàm phán về chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác giữa nước ta với nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế chưa công bố. Những tin tức của nước ngoài hoặc của các tổ chức quốc tế chuyển giao cho Việt Nam mà theo yêu cầu của bên giao hoặc được Hội đồng bộ trưởng xác định thuộc độ Tối mật; 2- Tổ chức, trang bị, phương án tác chiến của các đơn vị vũ trang; phương án vận chuyển và cất giữ vũ khí; công trình quan trọng phòng thủ biên giới, vùng trời, vùng biển, hải đảo; 3- Tài liệu về đường biên giới chưa công bố. Bản đồ quân sự; toạ độ điểm hạng I, hạng II Nhà nước của mạng lưới quốc gia hoàn chỉnh cùng với các ghi chú điểm kèm theo. Vị trí và trị số cao độ các mốc chính của các trạm khí tượng; thuỷ văn, hải văn; số liệu, độ cao số không tuyệt đối của các mốc hải văn; 4- Số liệu tuyệt đối về thu chi ngân sách Nhà nước chưa công bố. Số lượng tiền in, phát hành; tiền dự trữ bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ; các số liệu về bội chi, lạm phát tiền mặt chưa công bố; Phương án giá Nhà nước chưa công bố; 5- Nơi lưu giữ và số lượng kim loại quý hiếm, đá quí, ngoại hối và vật quí hiếm khác của Nhà nước. Địa điểm, trữ lượng của các mỏ kim loại, phi kim loại quí hiếm, chất phóng xạ chưa công bố; 6- Phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, bí quyết nghề nghiệp đặc biệt quan trọng đối với quốc phòng, an ninh quốc gia, kinh tế, khoa học, công nghệ chưa công bố; 7- Kế hoạch xuất nhập khẩu các mặt hàng giữ vị trí trọng yếu trong việc phát triển tiềm năng kinh tế - xã hội của đất nước. Bí mật Nhà nước trong các lĩnh vực công tác của các cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế ngoài phạm vi được quy định trên, thì thuộc độ Mật50. Như vậy, bí mật công tác thuộc độ tuyệt mật và tối mật được quy định cụ thể trong pháp lệnh tại Điều 6 và Điều 7, nhưng đối với bí mật công tác của các cơ quan, tổ chức không thuộc độ tuyệt mật và tối mật mà thuộc độ mật thì do cơ quan, tổ chức đề nghị và Thủ tướng quyết định. Ví dụ Tại quyết định số 208/TTg ngày 6 tháng 4 năm 1995, Thủ tướng chính phủ quyết định về danh mục bí mật của Toà án nhân dân tối cao. Theo quyết định này, thì danh mục bí mật Nhà nước của Toà án nhân dân tối cao cũng được chia làm hai loại loại tối mật và loại Do đó, khi xác định tài liệu bị tiết lộ có phải là bí mật công tác hay không, ngoài việc căn cứ Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước, còn phải căn cứ vào các văn bản khác của từng ngành, liên ngành quy định về danh mục bí mật của cơ quan, tổ chức. 3a. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm a1. Hành vi khách quan Người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là làm lộ bí mật công tác. Nhưng biểu hiện của hành vi làm lộ lại tuỳ thuộc vào chức vụ, quyền hạn và hoàn cảnh cụ thể lúc người phạm tội làm lộ bí mật đó. Hành vi làm lộ bí mật công tác được biểu hiện như Kể cho người khác nghe những bí mật mà mình biết; cung cấp tài liệu, tin tức bí mật cho người khác để người khác sử dụng các tài liệu, tin tức bí mật đó; loan truyền những tin tức bí mật bằng nhiều hình thức như truyền miệng, đăng báo, truyền thanh, truyền hình... Hành vi làm lộ bí mật Nhà nước bao giờ cũng gắn liền với nhiệm vụ của người phạm tội. Cũng chính vì thế nên mới gọi là làm lộ bí mật công tác, nếu không có chức vụ, quyền hạn và không thực hiện nhiệm vụ, thì không thể làm lộ bí mật Nhà nước được. Ví dụ Hồ Thị Th là chuyên viên vụ xuất nhập khẩu Bộ thương mại đã tiết lộ kế hoạch xuất nhập khẩu các mặt hàng giữ vị trí trọng yếu trong việc phát triển tiềm năng kinh tế - xã hội của đất nước. b1. Hậu quả Hậu quả của hành vi cố ý làm lộ bí mật công tác là những thiệt hại về vật chất và phi vật chất cho cơ quan, tổ chức và cho con người. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. chỉ cần người phạm tội có hành vi cố ý làm lộ bí mật công tác là tội phạm đã hoàn thành. Tuy nhiên, việc xác định hậu quả của tội phạm vẫn rất cần thiết, dù nó không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt, vì hành vi làm lộ bí mật công tác nếu đã gây ra hậu quả thì tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn trường hợp chưa gây ra hậu quả; nếu hậu quả gây ra lại là nghiêm trọng, thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật. 4a. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tên tội danh và điều văn của điều luật đã quy định người phạm tội này là do cố ý, tức là người phạm tội thấy trước được hậu quả của hành vi tất yếu hoặc có thể làm lộ bí mật công tác, mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Việc xác định người phạm tội có cố ý làm lộ bí mật công tác hay không là vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc xác định hành vi phạm tội, nếu người phạm tội không cố ý làm lộ bí mật công tác thì dù bí mật đó đã bị tiết lộ thì người có hành vi tiết lộ bí mật không cấu thành tội phạm này mà tuỳ trường hợp người có hành vi phạm tội vô ý làm lộ bí mật công tác hoặc không phạm tội. Khi xác định người phạm tội có cố ý làm lộ bí mật công tác hay không, không chỉ căn cứ vào lời khai của người phạm tội, mà phải căn cứ vào các tình tiết khách quan của vụ án, vì thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyết để cố ý làm lộ bí mật công tác nhưng khi sự việc được phát hiện thì lại cho rằng mình chỉ vô ý để lộ bí mật công tác để trốn trách nhiệm. Ví dụ Vũ Khắc X là Phó bí thư Đảng uỷ cơ quan đã cố ý để tài liệu bí mật về việc sắp xếp lại cán bộ trên bàn làm việc rồi nói cho Vũ Thị C là nhân viên và là người tình của X vào lấy tài liệu bí mật đó. B1. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1a. Phạm tội cố ý làm lộ bí mật công tác không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 286 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội cố ý làm lộ bí mật công tác. So với tội cố ý làm lộ bí mật công tác quy định tại khoản 1 Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, vì khoản 1 Điều 286 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm, trong khi đó khoản 1 Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến một năm. Mặt khác, nếu so sánh Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999, thì Điều 286 cũng là điều luật nặng hơn. Vì vậy, đối với hành vi cố ý làm lộ bí mật công tác xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì không áp dụng khoản 1 Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội, mà vẫn áp dụng k1 Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985. Khi áp dụng khoản 1 Điều 286 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt sáu tháng tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới 3 năm tù. 2a. Cố ý làm lộ bí mật công tác thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 286 Bộ luật hình sự Khoản 2 của điều luật chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là cố ý làm lộ bí mật công tác gây hậu quả nghiêm trọng. Cố ý làm lộ bí mật công tác gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do làm lộ bí mật công tác nên đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội. Những thiệt hại này có thể là thiệt hại về thể chất, vật chất hoặc những thiệt hại phi vật chất. Do thực tiễn xét xử chưa truy cứu trách nhiệm hình sự nhiều về tội phạm này nên việc định ra như thế nào là hậu quả nghiêm trọng do hành vi làm lộ bí mật công tác gây ra chưa được tổng kết hướng dẫn. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi cố ý làm lộ bí mật công tác, tham khảo các hướng dẫn về gây hậu quả nghiêm trọng đối với một số tội phạm khác, có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả nghiêm trọng do hành vi cố ý làm lộ bí mật công tác gây ra - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng Khoản 2 của điều luật chỉ quy định trường hợp gay hậu quả nghiêm trọng, nhưng không vì thế mà cho rằng nếu hành vi cố ý làm lộ bí mật công tác mà gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật. Đây cũng là vấn đề hạn chế về kỹ thuật lập pháp chúng ta không chỉ thấy ở tội phạm này mà còn thấy ở một số tội phạm khác. Trong khi đó, một số tội phạm trong cùng một khoản của điều luật, nhà làm luật lại quy định hai trường hợp gây hậu quả khác nhau. Ví dụ Tại khoản 2 Điều 285 Bộ luật hình sự quy định phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Hy vọng rằng, khi sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự các nhà làm luật sẽ quan tâm đến sự bất hợp lý này. 3a. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cố ý làm lộ bí mật công tác Theo quy định tại khoản 3 Điều 286 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. So với quy định tại Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì hình phạt bổ sung đối với tội cố ý làm lộ bí mật công tác quy định tại khoản 5 Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi, bổ sung như sau - Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 3 Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm”. - Nếu căn cứ vào mức hình phạt thì khoản 3 Điều 286 nhẹ hơn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng căn cứ vào nguyên tắc áp dụng hình phạt này thì khoản 3 Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định không có lợi cho người phạm tội vì việc áp dụng hình phạt cấm đảm chức vụ đối với người phạm tội là bắt buộc “bị cấm”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định không bắt buộc Toà án phải áp dụng “có thể bị cấm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 3 Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. 9b. TỘI CHIẾM ĐOẠT, MUA BÁN HOẶC TIÊU HUỶ TÀI LIỆU BÍ MẬT CÔNG TÁC Do kỹ thuật lập pháp nên điều luật quy định ba hành vi phạm tội khác nhau, đó là Chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác; mua bán tài liệu bí mật công tác; tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác. Do đó, khi định tội, cần chú ý Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nào thì định tội theo hành vi đó. Ví dụ Nếu người phạm tội chỉ tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác thì định tội là “tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác” mà không định tội theo điều văn của điều luật chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác. Nếu người phạm tội thực hiện cả ba hành vi phạm tội mà điều luật đã quy định thì định tội là “chiếm đoạt, mua bán và tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác”. Nếu người phạm tội thực hiện hai hành vi phạm tội thì định tội là “chiếm đoạt và mua bán tài liệu bí mật công tác” hoặc “chiếm đoạt và tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác”, hoặc “mua bán và tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác”. Nếu người phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau với đối tượng tài liệu bí mật công tác khác nhau thì việc định tội lại phức tạp hơn. Ví dụ Một người chiếm đoạt phát minh kinh tế và mua bán bí quyết nghề nghiệp chưa công bố, thì phải định tội “chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác” và tội “ mua bán tài liệu bí mật công tác” rồi tổng hợp hình phạt theo Điều 50 Bộ luật hình sự. Do điều luật quy định nhiều hành vi phạm tội khác nhau nên không thể nêu một định nghĩa chung cho tất cả các hành vi phạm tội mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà định nghĩa cho từng hành vi. Chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác là hành vi chuyển dịch trái phép tài liệu bí mật công tác bằng nhiều hình thức khác nhau như cướp, bắt cốc nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên, trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm... từ sở hữu hoặc thuộc quyền quản lý hợp pháp của người khác thành sở hữu hoặc quyền quản lý bất hợp pháp của mình. Mua bán tài liệu bí mật công tác là bán; mua, xin, nhặt được hoặc chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác để bán lại cho người khác; tàng trữ nhằm mục đích bán lại; vận chuyển để bán hoặc vận chụyển giúp cho người mua bán các tài liệu bí mật công tác. Tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác là huỷ hoạt hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu bí mật công tác làm cho tài liệu đó mất giá trị không sử dụng được nữa. Cũng như đối với tội cố ý làm lộ bí mật công tác, tội chiếm đoạt, mua bán và tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác đã được quy định tại Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985. Trong quá trình thi hành Bộ luật hình sự năm 1985, tội phạm này cũng không có sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, so với Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội phạm này chỉ sửa đổi, bổ sung loại hình phạt cải tạo không giam giữ từ một năm lên ba năm và hình phạt bổ sung được quy định trong cùng một điều luật, còn các dấu hiệu cấu thành tội phạm, khung hình phạt vẫn như Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985. Khác với tội cố ý làm lộ bí mật công tác, tội phạm này thực tế xảy ra không nhiều, nhưng nếu xảy ra thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, việc xử lý bằng hình thức kỷ luật hoặc xử phạt hành chính rất ít. Thông thường, tội phạm này gắn liền với một số tội phạm khác khi bị phát hiện, người phạm tội đã tiêu huỷ tài liệu để che giấu tội phạm. Thực tiễn xét xử cho thấy, nếu tài liệu bị tiêu huỷ không phải là tài liệu bí mật Nhà nước thì hành vi tiêu huỷ chỉ bị coi là hành vi che giấu tội phạm, còn nếu tài liệu bị tiêu huỷ lại là tài liệu bí mật công tác thì hành vi tiêu huỷ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác, mặc dù hành vi tiêu huỷ là nhằm che giấu tội phạm. A2. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Tội phạm này cũng gần giống với tội làm gán điệp và tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước quy định ở các điều 80 và Điều 263 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, tội phạm này nhà làm luật quy định tới ba hành vi phạm tội khác nhau, nên không phải hành vi phạm tội nào cũng có điểm gần giống với tội phạm quy định tại Điều 80 Bộ luật hình sự mà chỉ có một số hành vi. Ví dụ Chỉ có hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác nhằm cung cấp cho nước ngoài để nước ngoài sử dụng chống nước chống nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 80 Bộ luật hình sự mới tương tự với hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác quy định tại Điều 286 Bộ luật hình sự. Riêng hành vi chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước quy định ở Điều 263 Bộ luật hình sự, thì lại hoàn toàn tương tự với hành vi của tội phạm này, chỉ khác nhau ở chỗ Người phạm tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước là người không có chức vụ, quyền hạn hoặc nếu là người có chức vụ, quyền hạn thì những bí mật nhà nước mà họ làm lộ không liên quan đến nhiệm vụ của họ, ngược lại người phạm tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác là người có chức vụ, quyền hạn, những bí mật công tác mà họ làm lộ bao giờ cũng liên quan đến nhiệm vụ của họ. 1b. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ khác, chủ thể của tội “chiếm đoạt, mua bán và tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác” cũng được coi là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức trong khi thi hành công vụ mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Việc xác định tư cách chủ thể của tội phạm này có ý nghĩa phân biệt với tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước quy định tại Điều 263 Bộ luật hình sự. Mặc dù chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biêt, nhưng điều khẳng định này chỉ đúng đối với trường hợp vụ án không có đồng phạm, nếu vụ án có đồng phạm thỉ chỉ yêu cầu người thực hành phải là người có chức vụ, quyền hạn, còn những người đồng phạm khác không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội chiếm đoạt, mua bán và tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác cả khoản 1 và khoản 2 của điều luật không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 2b. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Cũng như đối với khách thể của tội cố ý làm lộ bí mật công tác, khách thể của tội chiếm đoạt, mua bán và tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức liên quan đến việc bảo mật của Nhà nước; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, thậm chí gây ra tác hại rất lớn, để người khác lợi dụng chống lại chế độ, gây mất đoàn kết hoặc đối phó với các chủ trương chính sách trước khi được thi hành. Đối tượng tác động của tội phạm này được nêu ngay trong cấu thành tội phạm, đó là tài liệu bí mật công tác, nhưng được gắn liền với công tác của cơ quan, tổ chức. Các tài liệu bí mật công tác bao gồm các tài liệu được quy định trong Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước và các tài liệu bí mật của các cơ quan, tổ chức được Chính phủ quyết định theo đề nghị của cơ quan, tổ chức đó. xem đối tượng tác động đối với tội cố ý làm lộ bí mật công tác. 3b. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a2. hành vi khách quan Điều luật quy định ba hành vi khách quan, đó là Chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác; mua bán tài liệu bí mật công tác và tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác. Hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác Hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác cũng tương tự như hành vi chiếm đoạt tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu, chỉ khác ở chỗ đối tượng chiếm đoạt không phải là tài sản mà là tài liệu bí mật công tác. So với hành vi chiếm đoạt tài sản, thì hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác được người phạm tội thực hiện bằng nhiều thủ đoạn hơn hành vi chiếm đoạt tài sản quy định trong chương các tội phạm xâm phạm sở hữu. Người phạm tội chiếm đoạt bí mật công tác vì là người có chức vụ, quyền hạn nên thông thường hành vi chiếm đoạt được thực hiện bằng hình thức lợi dụng chức vụ, quyền hạn nên có thể coi hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác là hành vi tham ô tài liệu bí mật công tác. Nếu người không có chức vụ, quyền hạn hoặc nếu có nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài liệu bí mật đó thì lại thuộc trường hợp quy định tại Điều 263 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, ngoài hành vi tham ô, người phạm tội có thể còn có những thủ đoạn khác để chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác như cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, công nhiên chiếm đoạt, cướp giật, trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt. Nếu người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt ằng những thủ đoạn trên thì cũng phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì mới là hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác. Hành vi mua bán tài liệu bí mật công tác Hành vi mua bán tài liệu bí mật công tác cũng như hành vi mua bán hàng hoá, nhưng mua bán tài liệu bí mật công tác là hành vi đã bán tài liệu bí mật công tác mà mình có trách nhiệm bảo quản, gữi gìn; mua, xin, nhặt được hoặc chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác để bán lại cho người khác; tàng trữ nhằm mục đích bán lại; vận chuyển để bán hoặc vận chụyển giúp cho người mua bán các tài liệu bí mật công tác. Hành vi mua bán tài liệu bí mật công tác khác với hành vi mua bán hàng hoá và hành vi mua bán tài liệu bí mật Nhà nước quy định tại Điều 263 Bộ luật hình sự ở chỗ Hành vi mua bán tài liệu bí mật công tác chỉ những người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mua bán tài liệu bí mật công tác. Hành vi tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác Tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác là huỷ hoạt hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu bí mật công tác làm cho tài liệu đó mất giá trị không sử dụng được nữa như đốt cháy, xé bỏ, xoá bỏ các dữ liệu trong máy tính, phá hỏng máy móc có chứa các tài liệu bí mật công tác. Hành vi này cũng tương tự như hành vi tiêu huỷ tài liệu bí mật Nhà nước quy định tại Điều 263 nhưng khác ở chỗ Người thực hiện hành vi tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác phải là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ quyền hạn để tiêu huỷ tài liệu bí mật có liên quan đến nhiệm vụ của mình. b2. Hậu quả Hậu quả của hành vi chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác là những thiệt hại về vật chất và phi vật chất cho cơ quan, tổ chức và cho con người. Cũng như đối với tội cố ý làm lộ bí mật công tác, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. chỉ cần người phạm tội có hành vi chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác là tội phạm đã hoàn thành. Tuy nhiên, việc xác định hậu quả của tội phạm vẫn rất cần thiết, dù nó không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt, vì hành vi chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác nếu đã gây ra hậu quả thì tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn trường hợp chưa gây ra hậu quả; nếu hậu quả gây ra lại là nghiêm trọng, thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật. 4b. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tuy điều văn của điều luật chỉ quy định mua bán, chiếm đoạt hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác, nhưng phải hiểu rằng, người thực hiện hành vi phạm tội này là do cố ý, tức là người phạm tội thấy trước được hậu quả của hành vi tất yếu hoặc có thể làm lộ bí mật công tác, mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả đó xảy ra. B2. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1b. Phạm tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 286 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác. So với tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu lộ bí mật công tác quy định tại khoản 1 Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, vì khoản 1 Điều 286 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm, trong khi đó khoản 1 Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến một năm. Mặt khác, nếu so sánh Điều 222 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999, thì Điều 286 cũng là điều luật nặng hơn. Vì vậy, đối với hành vi cố ý làm lộ bí mật công tác xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì không áp dụng khoản 1 Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi áp dụng khoản 1 Điều 286 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt sáu tháng tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới 3 năm tù. 2b. Cố ý làm lộ bí mật công tác thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 286 Bộ luật hình sự Khoản 2 của điều luật chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác gây hậu quả nghiêm trọng. Chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác nên đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội. Những thiệt hại này có thể là thiệt hại về thể chất, vật chất hoặc những thiệt hại phi vật chất. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi cố ý làm lộ bí mật công tác, tham khảo các hướng dẫn về gây hậu quả nghiêm trọng đối với một số tội phạm khác, có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả nghiêm trọng do hành vi chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác gây ra - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng Khoản 2 của điều luật chỉ quy định trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng không vì thế mà cho rằng nếu hành vi chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác mà gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật. Đây cũng là vấn đề hạn chế về kỹ thuật lập pháp, không chỉ thấy ở tội phạm này mà còn thấy ở một số tội phạm khác. Trong khi đó, một số tội phạm trong cùng một khoản của điều luật nhà làm luật lại quy định hai trường hợp gây hậu quả khác nhau. Ví dụ Tại khoản 2 Điều 285 Bộ luật hình sự lại quy định phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Hy vọng rằng, khi sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự các nhà làm luật sẽ quan tâm đến sự bất hợp lý này. 3b. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cố ý làm lộ bí mật công tác Theo quy định tại khoản 3 Điều 286 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. So với quy định tại Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì hình phạt bổ sung đối với tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác quy định tại khoản 5 Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi, bổ sung như sau - Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 3 Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm”. - Nếu căn cứ vào mức hình phạt thì khoản 3 Điều 286 nhẹ hơn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng căn cứ vào nguyên tắc áp dụng hình phạt này thì khoản 3 Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định không có lợi cho người phạm tội vì việc áp dụng hình phạt cấm đảm chức vụ đối với người phạm tội là bắt buộc “bị cấm”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định không bắt buộc Toà án phải áp dụng “có thể bị cấm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 3 Điều 286 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. 10. TỘI VÔ Ý LÀM LỘ BÍ MẬT CÔNG TÁC; TỘI LÀM MẤT TÀI LIỆU BÍ MẬT CÔNG TÁC Điều 287. Tội vô ý làm lộ bí mật công tác; tội làm mất tài liệu bí mật công tác 1. Người nào vô ý làm lộ bí mật công tác hoặc làm mất tài liệu bí mật công tác gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 264 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Cũng tương tự như đối với Điều 286, Điều 287 Bộ luật hình sự quy định hai tội danh độc lập. Đây cũng là vấn đề có liên quan đến kỹ thuật làm luật. Lẽ ra, nhà làm luật phải quy định hai tội phạm này ở hai điều luật khác nhau, nhưng hai tội này được quy định trong cùng một điều luật. Do đó khi bình luận, chúng tôi cũng phân tích các dấu hiệu cấu thành của từng tội để tiện theo dõi. 10a. TỘI VÔ Ý LÀM LỘ BÍ MẬT CÔNG TÁC Định Nghĩa Vô ý làm lộ bí mật công tác là tuy thấy trước hành vi của mình có thể làm lộ bí mật công tác, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, hoặc không thấy trước được hành vi của mình có thể làm lộ bí mật công tác, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Tội vô ý làm lộ bí mất công tác là tội phạm đã được quy định tại Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985. Tội phạm này, trong quá trình thi hành Bộ luật hình sự năm 1985, cũng không có sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, so với Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội phạm này đã có sửa đổi, bổ sung đáng kể. Nếu Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng thì Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; tăng mức hình phạt cải tạo không giam giữ từ một năm lên hai năm và hình phạt bổ sung được quy định trong cùng một điều luật, còn các dấu hiệu cấu thành tội phạm, khung hình phạt vẫn như Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985. Tội phạm này thực tế xảy ra cũng nhiều, nhưng cũng như đối với tội cố ý làm lộ bí mật công tác, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi vô ý làm lộ bí mật công tác lại rất ít, mà chủ yếu xử lý bằng hình thức kỷ luật hoặc xử phạt hành chính. A1. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Nếu bỏ qua các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm, thì tội vô ý làm lộ bí mật công tác tương tự với tội cố ý làm lộ bí mật công tác quy định tại Điều 286 Bộ luật hình sự hoặc tội làm gián điệp quy định tại Điều 80 Bộ luật hình sự. Nếu bỏ qua dấu hiệu về chủ thể của tội phạm, thì tội vô ý làm lộ bí mật công tác tương tự với tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước quy định tại Điều 264 Bộ luật hình sự. Như vậy, tội vô ý làm lộ bí mật công tác có những dấu hiệu tương tự với một số tội phạm khác cùng xâm phạm đến bí mật nhà nước hoặc bí mật công tác. 1a. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ khác, chủ thể của tội “vô ý làm lộ bí mật công tác” cũng là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức trong khi thi hành công vụ mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Việc xác định tư cách chủ thể của tội phạm này có ý nghĩa phân biệt với tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm mất tài liệu bí mật nhà nước quy định tại Điều 264 Bộ luật hình sự. Người có chức vụ, quyền hạn là người đã được phân tích ở phần khái niệm về chức vụ. Tuy nhiên, đối với tội phạm này, người có chức vụ, quyền hạn đã vô ý làm lộ bí mật trong phạm vi công tác của mình. Nếu bí mật đó không thuộc phạm vi công tác của mình mà người phạm tội biết được và đã vô ý làm lộ bí mật đó thì thuộc trường hợp quy định tại Điều 264 Bộ luật hình sự. Vì là vô ý phạm tội nên chỉ người có chức vụ, quyền hạn mới có thể là chủ thể của tội phạm này, không có trường hợp đồng phạm nên không thể có người đồng phạm. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Đối với tội vô ý làm lộ bí mật công tác chỉ là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là hai năm tù. 2a. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội vô ý làm lộ bí mật công tác là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức liên quan đến việc bảo mật của Nhà nước; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, thậm chí gây ra tác hại rất lớn, để người khác sử dụng các bí mật đó chống lại chế độ, gây mất đoàn kết hoặc đối phó với các chủ trương chính sách trước khi được thi hành. Đối tượng tác động của tội phạm này được nêu ngay trong cấu thành tội phạm, đó là bí mật công tác. Bí mật công tác cũng là bí mật Nhà nước, nhưng được gắn liền với công tác của cơ quan, tổ chức54. 3a. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm a1. Hành vi khách quan Hành vi khách quan của tội phạm này hoàn toàn giống với hành vi khách quan của tội cố ý làm lộ bí mật Nhà nước; biểu hiện của hành vi làm lộ bí mật công tác cũng tuỳ thuộc vào chức vụ, quyền hạn và hoàn cảnh cụ thể lúc người phạm tội làm lộ bí mật đó. Hành vi làm lộ bí mật công tác được biểu hiện như Kể cho người khác nghe những bí mật mà mình biết; cung cấp tài liệu, tin tức bí mật cho người khác để người khác sử dụng các tài liệu, tin tức bí mật đó; loan truyền những tin tức bí mật... Hành vi làm lộ bí mật Nhà nước bao giờ cũng gắn liền với nhiệm vụ của người phạm tội. Cũng chính vì thế nên mới gọi là làm lộ bí mật công tác, nếu không có chức vụ, quyền hạn và không thực hiện nhiệm vụ, thì không thể làm lộ bí mật Nhà nước được. b1. Hậu quả Hậu quả của hành vi vô ý làm lộ bí mật công tác là những thiệt hại về vật chất và phi vật chất cho cơ quan, tổ chức và cho con người. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này, nếu vô ý làm lộ bí mật công tác mà chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì chưa cấu thành tội phạm. So với Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm hai mức hậu quả, đó là “hậu quả rất nghiêm trọng và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Tuy nhiên, việc quy định này không làm thay đổi bản chất của cấu thành mà chỉ cụ thể hơn mà thôi. Đây lại là vấn đề có liên quan đến kỹ thuật lập pháp, nhiều tội phạm nhà làm luật chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng mà không quy định gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, nhưng nếu gây ra các hậu quả này thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự như là trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng nếu điều luật đó không quy định gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ khoản 2 Điều 286 Bộ luật hình sự chỉ quy định “phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng”, nhưng không vì thế mà cho rằng nếu gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 286 Bộ luật hình sự. Do đó có ý kiến cho rằng, nếu không cơ cấu thành nhiều điều khoản khác nhau có khung hình phạt khác nhau thì chỉ cần quy định gây hậu quả nghiêm trọng là đủ. Quan điểm này, theo chúng tôi là phù hợp, vì sự phân biệt giữa hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng không có ý nghĩa trong việc định tội mà chỉ có ý nghĩa quyết định hình phạt. Do chưa có hướng dẫn thế nào là hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vô ý làm lộ bí mật công tác gây ra, nên việc xác định thiệt hại tới mức nào là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vô ý làm lộ bí mật công tác là việc khá phức tạp, chúng ta không thể coi hậu quả nghiêm trọng do hành vi vô ý gây ra cũng như do hành vi cố ý gây ra. Thông thường, nếu hành vi cố ý gây ra hậu quả nghiêm trọng, thì hành vi vô ý gây hậu quả phải gấp hai lần hậu quả do hành vi cố ý gây ra mới được coi là hậu quả nghiêm trọng, nên có ý kiến cho rằng, thiệt hại gấp ba lần hậu quả nghiêm trọng do hành vi cố ý gây ra mới coi là hậu quả nghiêm trọng do hành vi vô ý gây ra. Có thể còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng nghiên cứu các tội phạm khác, chúng ta có thể xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi vô ý làm lộ bí mật công tác gây ra. Ví dụ Hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thương tích cho người khác có tỷ lệ thương tật là 31% được coi là gây hậu quả nghiêm trọng. Tội vi phạm các quy định an toàn giao thông đường bộ là tội phạm do vô ý. Tuy nhiên, hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ là hành vi trực tiếp gây ra hậu quả, còn hậu quả do hành vi vô ý làm lộ bí mật công tác lại không trực tiếp gây ra hậu quả. Do đó, việc xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi vô ý làm lộ bí mật công tác gây không thể vận dụng như trường hợp vô ý trực tiếp gây ra hậu quả. Nếu nghiên cứu hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999, thì hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội gây ra không bao gồm hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản vì tội phạm này không quy định trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng mà chỉ quy định cho các tội do cố ý. Tuy nhiên, những thiệt hại được quy định tại Thông tư liên tịch trên cũng là những thiệt hại gián tiếp do hành vi phạm tội gây ra và nó cũng được coi là những thiệt hại mà người phạm tội không mong muốn. Vì vậy, trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vô ý làm lộ bí mật công tác gây ra, chúng ta có thể vận dụng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 4a. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tên tội danh và điều văn của điều luật đã quy định người phạm tội này là do vô ý, tức là người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, hoặc không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả B1. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ Hình phạt chính Điều 287 Bộ luật hình sự chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đồng thời là cấu thành cơ bản của tội phạm, mặc dù có quy định ba mức hậu quả khác nhau nhưng đều có khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với tội vô ý làm lộ bí mật công tác quy định tại Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, vì khoản 1 Điều 287 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm, trong khi đó Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến một năm. Mặt khác, nếu so sánh Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999, thì Điều 287 cũng là điều luật nặng hơn. Vì vậy, đối với hành vi vô ý làm lộ bí mật công tác xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì không áp dụng khoản 1 Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi áp dụng khoản 1 Điều 287 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt chỉ gây ra hậu quả nghiêm trọng, thì có thể được áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ. Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ba tháng tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì có thể bị phạt tới 2 năm tù. Do điều luật quy định ba mức hậu quả khác nhau nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, nên khi quyết định hình phạt nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì người phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng bị phạt nặng hơn trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng; người phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng bị phạt nặng hơn trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 2b. Hình phạt bổ sung Ngoài hình phạt chính người phạm tội Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với quy định tại Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì hình phạt bổ sung đối với tội vô ý làm lộ bí mật công tác quy định tại khoản 2 Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi, bổ sung như sau - Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 2 Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm”. - Nếu căn cứ vào mức hình phạt thì khoản 2 Điều 287 nhẹ hơn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng căn cứ vào nguyên tắc áp dụng hình phạt này thì khoản 2 Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định không có lợi cho người phạm tội vì việc áp dụng hình phạt cấm đảm chức vụ đối với người phạm tội là bắt buộc “bị cấm”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định không bắt buộc Toà án phải áp dụng “có thể bị cấm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. 10b. TỘI LÀM MẤT TÀI LIỆU BÍ MẬT CÔNG TÁC Định nghĩa Làm mất tài liệu bí mật công tác là hành vi thiếu trách nhiệm hoặc do cẩu thả nên để tài liệu bí mật công tác bị mất Cũng như đối với tội vô ý làm lộ bí mật công tác, tội làm mất tài liệu bí mật công tác đã được quy định tại Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985. Tội phạm này, trong quá trình thi hành Bộ luật hình sự năm 1985, cũng không có sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, so với Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội phạm này đã có sửa đổi, bổ sung đáng kể. Nếu Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng thì Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; tăng mức hình phạt cải tạo không giam giữ từ một năm lên hai năm và hình phạt bổ sung được quy định trong cùng một điều luật, còn các dấu hiệu cấu thành tội phạm, khung hình phạt vẫn như Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985. Tội phạm này thực tế xảy ra cũng nhiều, nhưng cũng như đối với tội cố ý làm lộ bí mật công tác và vô ý làm lộ bí mật công tác, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi làm mất tài liệu bí mật công tác lại rất ít, mà chủ yếu xử lý bằng hình thức kỷ luật hoặc xử phạt hành chính. A2. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Tội phạm này tương tự với một số tội phạm có dấu hiệu thiếu trách nhiệm như Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 285; tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước quy định tại Điều 144; tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn quy định tại Điều 301 Bộ luật hình sự. Có thể nói, tội làm mất tài liệu bí mật công tác là hành vi thiếu trách nhiệm để mất tài liệu bí mật công tác. Tuy nhiên, đối với tội làm mất tài liệu bí mật công tác không chỉ có hành vi thiếu trách nhiệm mà còn cả hành vi do cẩu thả bất cẩn trong việc cất giữ, trông coi, vận chuyển, giao nhận... để tài liệu bí mất công tác bị mất. 1b. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ khác, chủ thể của tội “làm mất tài liệu bí mật công tác” cũng là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức trong khi thi hành công vụ mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Việc xác định tư cách chủ thể của tội phạm này có ý nghĩa phân biệt với tội tội làm mất tài liệu bí mật nhà nước quy định tại Điều 264 Bộ luật hình sự. Người có chức vụ, quyền hạn là người đã được phân tích ở phần khái niệm về chức vụ. Tuy nhiên, đối với tội phạm này, người có chức vụ, quyền hạn đã vô ý làm mất tài liệu bí mật trong phạm vi công tác của mình. Nếu bí mật đó không thuộc phạm vi công tác của mình mà người phạm tội biết được và đã làm mất tài liệu bí mật đó thì thuộc trường hợp quy định tại Điều 264 Bộ luật hình sự. Tội phạm này cũng là tội phạm tội mà người phạm tội thực hiện hành vi là do vô ý nên không có trường hợp đồng phạm và người đồng phạm. Do đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không thể là chủ thể của tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Đối với tội làm mất tài liệu bí mật công tác chỉ là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là hai năm tù. 2b. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội làm mất tài liệu bí mật công tác là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức liên quan đến việc bảo mật của Nhà nước; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, để người khác sử dụng các bí mật đó chống lại chế độ, gây mất đoàn kết hoặc đối phó với các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Đối tượng tác động của tội phạm này được nêu ngay trong cấu thành tội phạm, đó là bí mật công tác. Bí mật công tác cũng là bí mật Nhà nước, nhưng được gắn liền với công tác của cơ quan, tổ chức57. 3b. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm a2. Hành vi khách quan Có thể nói hành vi khách quan của tội phạm này hoàn toàn giống với hành vi khách quan của tội làm mất tài liệu bí mật Nhà nước; biểu hiện của hành vi làm mất tài liệu bí mật công tác cũng tuỳ thuộc vào chức vụ, quyền hạn và hoàn cảnh cụ thể lúc người phạm tội làm mất tài liệu bí mật đó. Hành vi làm mất tài liệu bí mật công tác được biểu hiện như để cho người khác chiếm đoạt tài liệu bí mật mà mình có trách nhiệm quản lý; giao nhầm tài liệu bí mật công tác cho người khác; để quên tài liệu bí mật công tác mà không tìm lại được; để người khác chụp, sao chép tài liệu bí mật công tác... Hành vi làm mất tài liệu bí mật công tác bao giờ cũng gắn liền với nhiệm vụ của người phạm tội. Cũng chính vì thế nên mới gọi là làm mất tài liệu bí mật công tác, nếu không có chức vụ, quyền hạn và không thực hiện nhiệm vụ, thì không thể làm mất tài liệu bí mật công tác được. b2. Hậu quả Hậu quả của hành vi làm mất tài liệu bí mật công tác là những thiệt hại về vật chất và phi vật chất cho cơ quan, tổ chức và cho con người. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này, nếu làm mất tài liệu bí mật công tác mà chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì chưa cấu thành tội phạm. So với Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985, cũng như tội vô ý làm lộ bí mật công tác, Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm hai mức hậu quả, đó là “hậu quả rất nghiêm trọng và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Việc quy định này cũng không làm thay đổi bản chất của cấu thành mà chỉ cụ thể hơn mà thôi. Đây cũng là vấn đề có liên quan đến kỹ thuật lập pháp như đã phân tích trong tội vô ý làm lộ bí mật công tác. Cũng như đối với tội vô ý làm lộ bí mật công tác, chưa có hướng dẫn thế nào là hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng do hành vi làm mất tài liệu bí mật công tác gây ra, nên việc xác định thiệt hại tới mức nào là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng do hành vi làm mất tài liệu bí mật công tác cũng là một vấn đề rất phức tạp như đối với trường hợp vô ý làm lộ bí mật công tác mà chúng tôi đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, trong khi chưa có hướng dẫn cụ thể, chúng ta cũng có thể vận dụng Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 về các trường hợp hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để xác định trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đối với hành vi làm mất tài liệu bí mật công tác. 4b. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tuy điều văn của điều luật không quy định vô ý làm mất tài liệu bí mật công tác nhưng tội phạm này người phạm tội thực hiện hành vi của mình là do vô ý, tức là người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, hoặc không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Nếu người phạm tội cố ý làm mất tài liệu bí mật công tác thì lại thuộc trường hợp quy định tại Điều 286 hoặc Điều 263 Bộ luật hình sự. B2. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1b. Hình phạt chính Cũng như đối với tội vô ý làm lộ bí mật công tác, Điều 287 Bộ luật hình sự chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đồng thời là cấu thành cơ bản của tội phạm, mặc dù có quy định ba mức hậu quả khác nhau nhưng đều có khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với tội làm mất tài liệu bí mật công tác quy định tại Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, vì khoản 1 Điều 287 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm, trong khi đó Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến một năm. Mặt khác, nếu so sánh Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999, thì Điều 287 cũng là điều luật nặng hơn. Vì vậy, đối với hành vi vô ý làm lộ bí mật công tác xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì không áp dụng khoản 1 Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi áp dụng khoản 1 Điều 287 Bộ luật hình sự đối với tội làm mất tài liệu bí mật công tác, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt chỉ gây ra hậu quả nghiêm trọng, thì có thể được áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ. Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ba tháng tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì có thể bị phạt tới 2 năm tù. Do điều luật quy định ba mức hậu quả khác nhau nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, nên khi quyết định hình phạt nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì người phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng bị phạt nặng hơn trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng; người phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng bị phạt nặng hơn trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 2b. Hình phạt bổ sung Ngoài hình phạt chính người phạm tội Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với quy định tại Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì hình phạt bổ sung đối với tội làm mất tài liệu bí mật công tác quy định tại khoản 2 Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi, bổ sung như sau - Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 2 Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm”. - Nếu căn cứ vào mức hình phạt thì khoản 2 Điều 287 nhẹ hơn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng căn cứ vào nguyên tắc áp dụng hình phạt này thì khoản 2 Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định không có lợi cho người phạm tội vì việc áp dụng hình phạt cấm đảm chức vụ đối với người phạm tội là bắt buộc “bị cấm”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định không bắt buộc Toà án phải áp dụng “có thể bị cấm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 287 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. 11. TỘI ĐÀO NHIỆM Điều 288. Tội đào nhiệm 1. Người nào là cán bộ, công chức mà cố ý từ bỏ nhiệm vụ công tác gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm a Lôi kéo người khác đào nhiệm; b Phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai hoặc trong những trường hợp khó khăn đặc biệt khác của xã hội; c Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa Đào nhiệm là cố ý từ bỏ nhiệm vụ công tác của cán bộ, công chức gây hậu quả nghiêm trọng Tội đào nhiệm là tội phạm đã được quy định tại Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy hành vi phạm tội này cũng xảy ra nhiều, nhưng chủ yếu xử lý bằng biện pháp hành chính, rất ít trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự, vì các trường hợp đào nhiệm chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc việc định hậu quả nghiêm trọng do hành vi này gây ra không được. So với tội đào nhiệm quy định tại Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985, thì về cơ bản tội đào nhiệm quy định tại Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 không có sửa đổi bổ sung nhiều mà chỉ sửa đổi, bổ sung một số nội dung có tính chất học thuật cho chính xác hơn và phù hợp với Pháp lệnh cán bộ, công chức như - Nếu Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “ nhân viên Nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội” thì Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “ cán bộ, công chức”; nếu Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “cố ý rời bỏ nhiệm vụ” thì Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “ cố ý từ bỏ nhiệm vụ công tác”. - Nếu khoản 1 Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến một năm thì khoản 1 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm; - Nếu điểm b khoản 2 Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “ phạm tội trong thời chiến” thì diểm b khoản 2 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, hoặc trong những trường hợp khó khăn đặc biệt khác của xã hội”; - Nếu điểm c khoản 2 Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định “ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” thì điểm c khoản 2 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”; Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng một điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Tội đào nhiệm cũng tương tự như tội đào ngũ quy định tại Điều 325 Bộ luật hình sự chỉ khác ở chỗ người phạm tội đào ngũ là quân nhân, còn người phạm tội đào nhiệm là cán bộ, công chức. Tuy nhiên, hành vi đào nhiệm rộng hơn hành vi đào ngũ. Đào ngũ là bỏ hẳn đơn vị, còn đào nhiệm có thể bỏ hẳn cơ quan, tổ chức nhưng cũng có thể chỉ bỏ nhiệm vụ được giao trong một thời gian nhất định. 1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ khác, chủ thể của tội “ đào nhiệm” cũng là chủ thể đặc biệt, chỉ có cán bộ, công chức mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Theo Điều 1 Pháp lệnh Công chức của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 26-2-1998, thì cán bộ, công chức gồm - Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ nhất định theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng; - Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp. Để cụ thể hoá Pháp lệnh Công chức trên, ngày 17-11-1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 95-1998/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và tại Điều 1 của Nghị định quy định định Công chức bao gồm những người đã được quy định tại khoản 3 và khoản 5 Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Cụ thể là - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, làm việc trong các cơ quan Văn phòng Chủ tịch nước; Văn phòng Quốc hội; Cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Toà án nhân dân, Viện Kiểm sat nhân dân các cấp; Cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; Trường học, bệnh viện, cơ quan nghiên cứu khoa học của Nhà nước; Cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của Nhà nước; Thư viện, bảo tàng, nhà văn hoá của Nhà nước; Các tổ chức sự nghiệp khác của Nhà nước. - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội đào nhiệm là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức liên quan đến việc quản lý cán bộ, công chức; làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức; gây ra hậu quả nghiêm trọng cho chính các cơ quan, tổ chức có người đào nhiệm và cho xã hội. 3. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Có thể nói, tội phạm này chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “từ bỏ nhiệm vụ công tác”; biểu hiện của hành vi này cũng đa dạng như Bỏ hẳn cơ quan, tổ chức mà mình là cán bộ, công chức; không thực hiện nhiệm vụ được giao và những hành vi khác từ bỏ nhiệm vụ công tác của mình. Bỏ cơ quan, tổ chức mà mình là cán bộ, công chức là tự ý bỏ việc để đến làm việc ở cơ quan, tổ chức khác không được sự đồng ý của người có thẩm quyền. Thông thường trường hợp này, người phạm tội từ bỏ luôn chức danh “cán bộ, công chức” để làm một việc có thu nhập cao hơn như bỏ cơ quan Nhà nước để làm kinh tế tư nhân; bỏ Bệnh viện ra thành lập trung tâm khám chữa bệnh tư Hành vi này tương tự như hành vi đào ngũ trong tội đào ngũ, tức là bỏ luôn cơ quan, tổ chức và không công tác ở cơ quan, tổ chức mà mình là cán bộ, công chức nữa. Loại hành vi này dễ xác định. Tuy nhiên, trong trường hợp cán bộ, công chức đã làm đơn xin nghỉ việc hoặc đã thông báo xin nghỉ việc cho người có trách nhiệm trong cơ quan, tổ chức mà mình công tác nhưng đã hết thời hạn giải quyết mà cơ quan, tổ chức không trả lời cho cán bộ, công chức mà cán bộ, công chức đó tự bỏ việc thì không coi là đào nhiệm. Nếu đã có thông báo của cơ quan, tổ chức không đồng ý cho cán bộ, công chức nghỉ việc mà cố tình bỏ việc gây hậu quả nghiêm trọng thì vẫn có thể coi là đào nhiệm. Hành vi không thực hiện nhiệm vụ được giao là hành vi từ bỏ nhiệm vụ công tác mà theo quy định thì người cán bộ, công chức này phải có trách nhiệm thực hiện như Một giáo viên dạy toán được phân công lên vùng cao công tác, nhưng được một năm, người giáo viên này đã bỏ về quê vì không chịu được khó khăn dẫn đến thiếu giáo viên phải cho 4 lớp 9 phải nghỉ học môn toán ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng học tập, cả 4 lớp 9 của trường không đủ điều kiện thi tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Khi xác định hành vi từ bỏ nhiệm vụ ở dạng không thực hiện nhiệm vụ được giao cần chú ý phân biệt với hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng của những người có chức vụ, quyền hạn vì nhất thời bỏ vị trí công tác nên gây ra hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ Một bác sĩ trực đã bỏ vị trí đi chơi nên dẫn đến hậu quả có một bệnh nhân cấp cứu không được cứu chữa kịp thời đã tử vong, người bác sĩ này tuy có hành vi từ bỏ nhiệm vụ công tác nhưng không phải là hành vi đào nhiệm mà chỉ là hành vi thiéu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Nhiệm vụ công tác mà người phạm tội cố ý từ bỏ là nhiệm vụ mà theo pháp luật hoặc theo điều lệ của cơ quan, tổ chức giao thường xuyên hoặc đột xuất. Dù là thường xuyên hay nhiệm vụ đột xuất thì nhiệm vụ đó phải là nhiệm vụ công công vụ. Đây là dấu hiệu rất quan trọng để xác định người từ bỏ nhiệm vụ có phải là người đào nhiệm hay không. Nếu nhiệm vụ mà người từ bỏ không phải là nhiệm vụ công thì người có hành vi từ bỏ không phải là đào nhiệm mà tuỳ trường hợp cụ thể người đó chỉ vi phạm luật lao động. b. Hậu quả Hậu quả của hành vi đào nhiệm là những thiệt hại về vật chất và phi vật chất cho cơ quan, tổ chức và cho con người. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này, nếu đào nhiệm mà chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng, thì chưa cấu thành tội phạm. Nếu gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật. Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ, chưa có hướng dẫn thế nào là hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra, nên việc xác định thiệt hại tới mức nào là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra cũng là một vấn đề rất phức tạp. Tuy nhiên, trong khi chưa có hướng dẫn cụ thể, chúng ta cũng có thể vận dụng Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 về các trường hợp hậu quả nghiêm trọng để xác định trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đối với hành vi đào nhiệm. Tuy nhiên, trong từng trường hợp cụ thể, việc xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra, nhất là đối với những thiệt hại phi vật chất, cần phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể trong một trường hợp cụ thể để xác định hậu quả nghiêm trọng. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tuy điều văn của điều luật quy định người phạm tội cố ý từ bỏ nhiệm vụ công tác, nhưng hậu quả nghiêm trọng gây ra người phạm tội không mong muốn, họ có thể bỏ mặc hoặc không quan tâm đến hậu quả, họ chỉ cố ý thực hiện hành vi từ bỏ nhiệm vụ còn hậu quả như thế nào họ không quan tâm, có trường hợp người phạm tội không biết hậu quả xảy ra hay không, tức là người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, hoặc không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Như vậy, người phạm tội đào nhiệm thực hiện hành vi do cố ý nhưng tội phạm này được thực hiện do cố ý hay vô ý là một vấn đề cần trao đổi. Có ý kiến cho rằng, người phạm tội đào nhiệm thực hiện hành vi của mình do cố ý vì trước hết người phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi đào nhiệm, mặc dù người phạm tội không mong muốn cho hậu quả xảy ra nhưng chí ít cũng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Có ý kiến khác cho rằng, tuy người phạm tội cố ý thực hiện hành vi nhưng không mong muốn và cũng không bỏ mặc cho hậu quả xảy ra nên không phải là cố ý phạm tội, trường hợp phạm tội này cũng như trường hợp người lái xe cố ý đi vào đường ngược chiều gây tai nạn làm chết người. Có thể còn ý kiến khác nhau về lỗi của người phạm tội đào nhiệm, nhưng dù sao chúng ta có thể khẳng định rằng, người phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi đào nhiệm, còn thái độ của người phạm tội đối với hậu quả là bàng quang bỏ mặc, do đó theo chúng tôi, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội này là do cố ý cố ý gián tiếp. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội đào nhiệm không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 288 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội đào nhiệm. So với tội đào nhiệm quy định tại khoản 1 Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, vì khoản 1 Điều 288 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm, trong khi đó khoản 1 Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến một năm. Mặt khác, nếu so sánh Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999, thì Điều 288 cũng là điều luật nặng hơn. Vì vậy, đối với hành vi đào nhiệm xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì không áp dụng khoản 1 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi áp dụng khoản 1 Điều 288 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ba tháng tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới ba năm tù. 2. Phạm tội đào nhiệm thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 288 Bộ luật hình sự a. Lôi kéo người khác đào nhiệm Lôi kéo người khác đào nhiệm là bằng mọi cách để người khác nghe theo và đứng về phía mình, cùng mình đào nhiệm. Cách thức mà người phạm tội sử dụng có thể là hăm doạ, dụ dỗ, mua chuộc... để người khác cùng đào nhiệm với mình. Nếu người phạm tội dùng vũ lực, khống chế làm cho người khác tê liệt ý chí, không có khả năng kháng cự phải cùng đào nhiệm với mình thì không phải là lôi kéo, mà tuỳ trường hợp người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt người trái pháp luật hoặc các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người. Nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi lôi kéo, nhưng người bị lôi kéo không nghe theo và không đào nhiệm, thì về nguyên tắc, người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tình tiết “lôi kéo người khác đào nhiệm” nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. b. Phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai hoặc trong những trường hợp khó khăn đặc biệt khác của xã hội Điểm b khoản 2 của điều luật quy định ba tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là Phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh; phạm tội trong hoàn cảnh thiên tai và phạm tội trong những trường hợp khó khăn đặc biệt khác. Do đó, khi áp dụng điểm b khoản 2 của điều luật cần chú ý Chỉ cần người phạm tội có một trong ba tình tiết là yếu tố định khung hình phạt nêu trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 Điều 288 Bộ luật hình sự. Người phạm tội trong hoàn cảnh nào, thì xác định trong hoàn cảnh đó, không xác định một cách chung chung; trong bản án cần xác định rõ người phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai hay trong hoàn cảnh đặc biệt khác của xã hội. Điểm b khoản 2 của điều luật quy định “phạm tội trong hoàn cảnh...” nên khi xác định tình tiết này cần phân biệt với một số trường hợp đối với một số tội phạm khác có quy định tình tiết “lợi dụng hoàn cảnh...”. Người phạm tội đào nhiệm không đòi hỏi họ phải “lợi dụng hoàn cảnh”, mà chỉ cần xác định họ đào nhiệm “trong hoàn cảnh...” là thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 288 Bộ luật hình sự. Phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh Đào nhiệm trong hoàn cảnh chiến tranh là trường hợp cán bộ, công chức đang thực hiện nhiệm vụ ở nơi có chiến sự xảy ra đã từ bỏ nhiệm vụ của mình. Người phạm tội có thể bỏ nơi đang có chiến sự về nơi không có chiến sự hoặc tuy vẫn ở nơi có chiến sự nhưng từ bỏ nhiệm vụ được giao. Hiện nay đất nước không có chiến tranh, nên tình tiết này nhà làm luật quy định có tính chất dự phòng. Tuy nhiên, nếu cán bộ, công chức được nhận nhiệm vụ làm chuyên gia cho nước bạn, mà nước đó có chiến tranh xảy ra, chưa được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền mà người cán bộ, công chức đó từ bỏ nhiệm vụ để về nước hoặc chạy sang nước khác, thì vẫn bị coi là đào nhiệm trong hoàn cảnh chiến tranh. Phạm tội trong hoàn cảnh thiên tai Đào nhiệm trong hoàn cảnh thiên tai là trường hợp cán bộ, công chức đang thực hiện nhiệm vụ ở nơi có thiên tai đã từ bỏ nhiệm vụ của mình. Thiên tai là nhưng tai hoạ do thiên nhiên gây ra, thiên tai bao giờ cũng gây ra nhưng khó khăn cho xã hội. Những khó khăn này phải đáng kể nếu không nói là đặc biệt, như bị bão lụt, bị động đất. Trong lúc Nhà nước đang cần sức người, sức của để giả quyết những hậu quả do thiên tai gây ra thì cán bộ, công chức lại từ bỏ nhiệm vụ của mình ở nơi có thiên tai, càng làm cho tình hình gặp khó khăn hơn. Phạm tội trong những trường hợp khó khăn đặc biệt khác của xã hội Ngoài khó khăn do thiên tai, địch hoạ, gây nên, còn có những khó khăn đặc biệt khác. Những khó khăn này, có thể xảy ra ở từng nơi, vào từng lúc. Có thể xảy ra ở một địa bàn rộng, nhưng cũng có thể xảy ra ở một làng, một xã, một cơ quan, xí nghiệp trường học Ví dụ Nguyễn Xuân K là bác sỹ bệnh viện B được phân công cùng với Đoàn cán bộ y tế đến khắc phục hậu quả do dịch bệnh gây nên ở huyện M tỉnh H, nhưng do không chịu được khó khăn, nên K đã bỏ về, gây khó khăn cho việc cứu chữa các bệnh nhân bị dịch bệnh. Khó khăn đặc biệt, thể hiện ở mức độ và phạm vi gây thiệt hại đến người và tài sản. Việc khắc phục đòi hỏi phải tập trung sức người, sức của và phải kịp thời, cấp bách như Dịch bệnh, tai nạn máy bay, tàu biển, tàu hoả gây chết nhiều người, hư hại nhiều tài sản, những khó khăn đặc biệt do công tác quản lý Nhà nước, quản lý xã hội gây nên mà nhà làm luật chưa dự tính được. c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng Đào nhiệm gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là trường hợp do đào nhiệm mà đã gây ra những thiệt hại rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội. Những thiệt hại này có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; thiệt hại về tài sản và những thiệt hại khác. Điểm c khoản 2 của điều luật cũng quy định hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau. Nếu xét về kỹ thuật lập pháp thì cách quy định này chưa thật khoa học. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cần phân biệt hai trường hợp phạm tội này để quyết định hình phạt cho chính xác. Cũng như trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra, chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra. Mặt khác, thực tiễn xét xử cũng chưa có trường hợp đào nhiệm nào gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để chúng ta có thể tham khảo. Tuy nhiên, như đối với trường hợp đào nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, khi chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra, chúng ta có thể tham khảo Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 về các trường hợp hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để xác định trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đối với hành vi đào nhiệm. Tuy nhiên, trong từng trường hợp cụ thể, việc xác định hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra, nhất là đối với những thiệt hại phi vật chất, cần phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể trong một trường hợp cụ thể để xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Khi áp dụng khoản 2 Điều 288 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới hai năm tù. Nếu không đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. Nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới bảy năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội đào nhiệm Ngoài hình phạt chính người phạm tội Người phạm tội đào nhiệm còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với quy định tại Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì hình phạt bổ sung đối với tội đào nhiệm quy định tại khoản 3 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi, bổ sung như sau - Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 3 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm”. - Nếu căn cứ vào mức hình phạt thì khoản 3 Điều 288 nhẹ hơn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng căn cứ vào nguyên tắc áp dụng hình phạt này thì khoản 3 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định không có lợi cho người phạm tội vì việc áp dụng hình phạt cấm đảm chức vụ đối với người phạm tội là bắt buộc “bị cấm”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định không bắt buộc Toà án phải áp dụng “có thể bị cấm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 3 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tộ 12. TỘI ĐƯA HỐI LỘ Điều 289. Tội đưa hối lộ 1. Người nào đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm a Có tổ chức; b Dùng thủ đoạn xảo quyệt; c Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ; d Phạm tội nhiều lần; đ Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; e Gây hậu quả nghiêm trọng khác. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm a Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng; b Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình a Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên; b Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ. 6. Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Định nghĩa Đưa hối lộ là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trực tiếp hoặc qua trung gian để đưa cho người có chức vụ, quyền hạn, để người này làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của mình. Tội đưa hối lộ là tội phạm được tách từ tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ quy định tại Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985. Nói chung, so với Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 không có thay đổi lớn. Tuy nhiên, Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội mặc dù mức hình phạt thấp nhất và cao nhất vẫn không thay đổi từ một năm tù đến tử hình. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Có thể nói, tội phạm này là tội phạm đối xứng với tội nhận hối lộ có đưa có nhận. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử không phải trường hợp nào cứ có người nhận thì phải có người đưa hối lộ mà tuỳ từng trường hợp có thể có người nhận hối lộ nhưng không có người đưa, ngược lại có trường hợp có người đưa hối lộ nhưng lại không có nhận hối lộ. Vì vậy, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định hành vi phạm tội của người đưa tiền hoặc lợi ích vật chất khác có phải là hành vi đưa hối lộ hay không. 1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm Khác với các tội phạm về chức vụ, tội đưa hối lộ không phải là chủ thể đặc biệt, người phạm tội không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn và cũng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Việc nhà làm luật quy định tội phạm này trong chương “ các tội phạm về chức vụ” là vì khách thể của tội phạm chứ không phải vì chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội đưa hối lộ cũng có thể là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để đưa hối lộ, nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người không có chức vụ, quyền hạn thì họ chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Người dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội đưa hối lộ quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội đưa hối lộ là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức mình bị thoái hoá biến chất. 3. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là “đưa”. Nhưng biểu hiện của hành đưa hối lộ rất đa dạng. Có trường hợp người phạm tội trực tiếp đưa hối lộ cho người nhận hối lộ, có trường hợp qua trung gian người môi giới để đưa hối lộ cho người nhận hối lộ, có trường hợp người đưa hối lộ dùng thủ đoạn tinh vi xảo quyệt không trực tiếp đưa hối lộ cho người nhận hối lộ cũng không qua trung gian mà tìm cách mua chuộc những người thân thích của người có chức vụ, quyền hạn theo kiểu “mưa dầm thấm đất”; cũng có trường hợp người đưa hối lộ thông qua việc thanh toán hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán, thông qua việc nộp thuế, nộp lệ phí để đưa hối lộ từ ít đến nhiều, rồi đến một lúc nào đó người đưa hối lộ mới yêu cầu người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của mình. Loại hành vi này, hiện nay đang phổ biến. Qua các vụ án, Tân Trường Sanh, Anh Lâm, Mỹ Phượng, Trịnh Vĩnh Bình, Tamexco, Epco- Minh Phụng và đặc biệt là vụ án Năm Cam cho thấy một số cán bộ, công chức kể cả cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước cũng bị những người phạm tội mua chuộc theo kiểu “mưa dầm thấm đất”. Do mất cảnh giác, nên đã vô tình hoặc cố ý tiếp tay cho kể phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Khi xác định hành vi đưa hối lộ cần phân biệt với hành vi làm môi giới hối lộ trong trường hợp người đưa hối lộ không dùng tiền, tài sản của mình và mục đích đưa hối lộ cũng không đem lại lợi ích cho mình mà đem lại lợi ích cho người mà người đưa hối lộ yêu cầu. Ví dụ Trong vụ án Năm Cam, Trần Văn Thuyết Thuyết trăm voi, Thuyết buôn vua nhận tiền của Năm Cam từ Dương Ngọc Hiệp Hiệp phò mã là con rể của Năm Cam để đưa hối lộ cho Trần Mai Hạnh, Tổng giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam để Trần Mai Hạnh lợi dụng chức vụ quyền hạn can thiệp thả Năm Cam đang bị tập trung cải tạo. Trong trường hợp này, nếu xem xét một cách máy móc, thì Trần Văn Thuyết phạm tội làm môi giới hối lộ nhưng căn cứ vào hành vi và các dấu hiệu của tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ, thì hành vi của Thuyết là hành vi đưa hối lộ. b. Hậu quả Hậu quả của tội phạm này không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, nếu của hối lộ chưa đến đồng thì hậu quả lại là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng phải là hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của con người; những thiệt hại về tài sản, uy tín của cơ quan, tổ chức và những thiệt hại phi vật chất khác. Hành vi đưa hối lộ gây ra hậu quả nghiêm trọng, được xác định như là một nguyên nhân gián tiếp. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra, nhưng tham khảo hướng dẫn của liên ngành về các tội xâm phạm sơ hữu, thì có thể coi hậu quả nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra nếu - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tội đưa hối lộ người thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Động cơ phạm tội tuy không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này, nhưng hầu hết các trường hợp đưa hối lộ đều có động cơ. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội đưa hối lộ không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội đưa hối lộ. So với tội đưa hối lộ quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn mà cũng không nhẹ hơn, vì đều có khung hình phạt từ một năm đến sáu năm tù và nếu so sánh Điều 227 với Điều 289 thì không tội phạm nào nặng hơn hoặc nhẹ hơn tội phạm nào. Vì vậy, đối với hành vi đưa hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội. Khi áp dụng khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc nếu có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới một năm tù hoặc cho người phạm tội được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới 6 năm tù. 2. Đưa hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, đưa hối lộ có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án đưa hối lộ có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Đưa hối lộ có tổ chức thường khó bị phát hiện, vì có sự cấu kết, phân công vai trò, trách nhiệm của từng người đồng phạm nên khó bị phát hiện. Điển hình cho việc đưa hối lộ có tổ chức là vụ án Tân Trường Sanh, vụ Anh Lâm và vụ Năm Cam. Trong đó, việc đưa hối lộ của Trần Đàm, Anh Lâm và Năm cam được tổ chức rất tinh vi, Trần Đầm và Anh Lâm giao cho thuộc hạ của mình mỗi lần nhận hàng lậu hoặc mối lần Hải quan tổ chức kiểm hoá hàng lậu đã đưa tiền cho cán bộ Hải quan thuộc các Cục hải quan Thừa Thiên-Huế, Long An, Cần Thơ, Vũng Tàu và Phòng chống buôn lậu Hải quan thành phố Hồ Chí Minh trong một thời gian dài. Đối với Năm Cam cũng giao cho “đàn em” móc nối với một số cán bộ có chức có quyền và đưa hối lộ để chạy tội cho Năm Cam. Chỉ khi cơ quan điều tra phát hiện hành vi phạm tội của Trần Đàm, của Anh Lâm và Năm Cam thì hành vi đưa hối lộ của mới bị phát hiện. b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt Dùng thủ đoạn xảo quyệt để đưa hối lộ là người phạm tội đưa hối lộ có những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người nhận hối lộ hoặc những người khác khó lường thấy được để đề phòng. Những mánh khoé, cách thức mà người đưa hối lộ sử dụng để đưa hối lộ rất đa dạng, nhưng chỉ coi là dùng thủ đoạn xảo quyệt đối với những mánh khoé, cách thức làm cho người nhận không thể từ chối hoặc nếu biết cũng không đối phó được như Đưa hối lộ nhưng núp dưới hình thức quà tặng nhân ngày sinh nhật, ngày lễ, tết, nhân đám tang, đám cưới, tân gia; chi phí cho một chuyến du lịch, tham quan nước ngoài; chi phí cho con của người nhận hối lộ đi du học nước ngoài; cho vay tiền nhưng “quên” không đòi; bán nhà, đất với giá rất rẻ hoặc mua tài sản với giá rất đắt Nói chung, những mánh khoé, cách thức đưa hối lộ mà người đưa hối lộ sử dụng rất khó phát hiện hoặc nếu có bị phát hiện thì khó tìm được chứng cứ để buộc tội họ. c. Dùng tài sản của Nhà nước để hối lộ Dùng tài sản của Nhà nước để hối lộ là người đưa hối lộ lấy tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ cho người khác. Trương hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 179 Bộ luật hình sự đối với tội nhận hối lộ. Tuy nhiên, trường hợp phạm tội này thường đối với người đưa hối lộ là người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội đã dùng tiền hoặc tài sản của cơ quan, tổ chức của mình để đưa hối lộ cho người khác với động vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Ví dụ Dùng tiền của công ty để đưa hối lộ, để được giảm thuế nhập khẩu, để được cấp quota, để được trúng thầu, để che giấu hành vi phạm tội của mình... Cũng như đối với một số tội phạm khác, Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định tài sản của Nhà nước mà chỉ quy định tài sản xã hội chủ nghĩa. Việc nhà làm luật thay đổi khái niệm tài sản xã hội chủ nghĩa bằng khái niệm tài sản của Nhà nước không chỉ đơn thuần thay đổi về tên gọi tính chất tài sản mà nó làm thay đổi tính chất, phạm vi áp dụng đối với hành vi phạm tội nói chung và tội đưa hối lộ nói riêng. Tài sản xã hội chủ nghĩa có nội hàm rộng hơn tài sản của Nhà nước. Tài sản xã hội chủ nghĩa bao gồm cả tài sản của các tổ chức kinh tế tập thể, nhưng tài sản của Nhà nước thì chỉ bao gồm tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Về khái niệm tài sản của Nhà nước cho đến nay vẫn còn ý kiến khác nhau, nếu tài sản thuộc quyền sở hữu hoàn toàn của Nhà nước thì không cò phải bàn cãi, nhưng nếu tài sản chỉ thuộc quyền sở hữu một phần của Nhà nước thì vấn đề lại không đơn giản như Các công ty cổ phần, Công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các đơn vị liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với các đơn vị kinh tập thể hoặc tư nhân... Nếu người đưa hối lộ biết của hối lộ là tài sản của các đơn vị kinh tế này thì có coi là tài sản của Nhà nước không ? Đây là vấn chưa được hướng dẫn giải thích nên trong thực tiễn xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng thường có quan điểm khác nhau khi phải xác định tài sản của Nhà nước là yếu tố định khung hình phạt hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong một số tội phạm. Có thể còn ý kiến khác nhau về thế nào là tài sản của Nhà nước, nhưng chúng tôi cho rằng, về nguyên tắc, tài sản của Nhà nước phải thuộc sở hữu của Nhà nước. Nếu tài sản đó Nhà nước chỉ có quyền sở hữu một phần dù đó là phần lớn thì cũng chưa thể coi đó là tài sản của Nhà nước. d. Phạm tội nhiều lần Phạm tội đưa hối lộ nhiều lần là có từ hai lần đưa hối lộ trở lên và mỗi lần đưa hối lộ đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý kỷ luật, phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. đ. Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng Đây là trường hợp người phạm tội đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng. Nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa của hối lộ hoặc đã hứa đưa hối lộ, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Ví dụ Trần Văn T mua chiếc xe máy Dream II Trung quốc với giá đồng, nhưng khi đưa hối lộ cho Phạm Văn B thì giá xe của Trung Quốc chỉ còn đồng. Nếu tính giá trị chiếc xe khi T mua thì T phạm tội đưa hối lộ thuộc trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự, nhưng nếu tính giá trị chiếc xe vào thời điểm T đưa hối lộ cho B thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị của hối lộ thì phải trưng cầu giám định định giá. Điều luật quy định của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng, chứ không quy định người phạm tội đã đưa được của hối lộ có giá trị như trên, nên chỉ cần xác định người phạm tội có ý định đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã đưa được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc. e. Gây hậu quả nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở khoản 1 của điều luật, chỉ khác ở chỗ, trường hợp phạm tội này là hậu quả nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ từ đồng đến dưới đồng. Nếu dưới đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng khác nếu do hành vi nhận hối lộ mà - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng Tương tự như đối với tội tham ô, tội nhận hối lộ, khoản 1 của điều luật chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng còn điểm e khoản 2 của điều luật lại quy định gây hậu quả nghiêm trọng khác, nên có ý kiến cho rằng hậu quả nghiêm trọng khác và hậu quả nghiêm trọng không phải là một. Nếu sự phân biệt trên là có căn cứ thì khoản 1 của điều luật quy định hậu quả nghiêm trọng cũng khó xác định đâu là hậu quả trực tiếp do hành vi đưa hối lộ gây ra, còn đâu là hậu quả gián tiếp do hành vi nhận hối lộ gây ra ? vì các thiệt hại khác đều là những thiệt hại gián tiếp do hành vi đưa hối lộ gây ra và nó chỉ là hậu quả khác. Do đó có ý kiến cho rằng, khoản 1 điều luật cũng nên quy định gây hậu quả khác mới chính xác. Quan điểm này cũng có cơ sở lý luận và thực tiễn. Hy vọng rằng khi có điều kiện, nhà làm luật sẽ nghiên cứu sửa đổi để phù hợp hơn. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn khoản 2 Điều 227. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 289 có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, khi áp dụng khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý - Nếu hành vi đưa hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà của hối lộ từ đồng đến dưới đồng thì vẫn áp dụng khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985; - Nếu hành vi đưa hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà của hối lộ là tài sản xã hội chủ nghĩa nhưng không phải là tài sản của Nhà nước thì chỉ áp dụng khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 mà không áp dụng điểm c khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội đưa hối lộ theo khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự, Toà án cũng cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới sáu năm tù nhưng không được dưới một năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì, khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới mười ba năm tù. Khi cân nhắc để quyết định một mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội đưa hối lộ, Toà án cần căn cứ vào nguyên tắc đã được nêu ở tội tham ô tài sản 60 3. Đưa hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự a. Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ Giá trị của hối lộ từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng. Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa của hối lộ hoặc đã hứa đưa hối lộ; chỉ cần xác định người phạm tội sẽ đưa của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã đưa được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc; nếu người phạm tội chưa đưa được của hối lộ, thì cũng không vì thế mà cho rằng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi đưa hối lộ gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng khác. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Cũng như đối với tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng khác do hành vi đưa hối lộ gây ra, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra - Làm chết hai người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn khoản 3 Điều 227. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 289 có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, khi áp dụng khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý - Nếu hành vi đưa hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà của hối lộ từ đồng đến dưới đồng thì vẫn áp dụng khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng khi quyết định hình phạt thì phải căn cứ vào khung hình phạt tại khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. - Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật thì cũng chỉ áp dụng khoản 2 điều luật mà không áp dụng khoản 3 của điều luật, vì tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều này” khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định nữa. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới mười ba năm tù nhưng không được dưới sáu năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt tới hai mươi năm tù. Khi cân nhắc để quyết định một mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội đưa hối lộ, Toà án cần căn cứ vào nguyên tắc đã được nêu ở tội tham ô tài sản 62 4. Đưa hội lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự a. Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2, điểm a khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ Giá trị của hối lộ từ ba trăm triệu đồng trở lên. Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2, điểm a khoản 3 của điều luật, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa của hối lộ hoặc đã hứa đưa hoặc nhận hối lộ; chỉ cần xác định người phạm tội sẽ đưa của hối lộ có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên là thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã đưa được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc; nếu người phạm tội chưa đưa được hoặc mới đưa được một phần của hối lộ, thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2, điểm b khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi đưa hối lộ gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác do hành vi đưa hối lộ gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Cũng như đối với tội nhận hối lộ, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra Làm chết ba người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 4 Điều 227, vì khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, còn khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt tù hai năm, tù chung thân hoặc tử hình. Mặt khác, khoản 4 Điều 289 không còn quy định tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này” là yếu tố định khung hình phạt và giá trị của hối lộ quy định tại khoản 4 Điều 289 cũng lớn hơn đồng so với đồng. Vì vậy, khi áp dụng khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý - Nếu hành vi nhận hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý mà của hối lộ từ đồng đến dưới đồng thì vẫn áp dụng khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng khi quyết định hình phạt thì phải căn cứ vào khung hình phạt tại khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. - Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 của điều luật thì cũng chỉ áp dụng khoản 3 điều luật mà không áp dụng khoản 4 của điều luật, vì tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này” khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định nữa. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội đưa hối lộ theo khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới hai mươi năm tù nhưng không được dưới mười ba năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 4 là khoản 3 Điều 289 Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tuy có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, là người có nhân thân xấu, không còn khả năng cải tạo thì có thể áp dụng hình phạt tử hình. Do điều luật quy định khung hình phạt có ba mức khác nhau và để việc áp dụng thống nhất pháp luật, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15-3-2001 dẫn áp dụng một số quy định của các Điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 Bộ luật hình sự. Theo hướng dẫn này thì Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và không có tình tiết giảm nhẹ hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, nhưng đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ tương đương nhau, thì xử phạt người phạm tội mức án tương ứng với của hối lộ như sau - Xử phạt hai mươi năm tù nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới tám trăm triệu đồng; - Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng đến dưới hai tỷ đồng; - Xử phạt tử hình nếu của hối lộ có giá trị từ hai tỷ đồng trở lên. Trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn, đồng thời đánh giá tính chất giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nhẹ hơn mức án được hướng dẫn trên, cụ thể như sau - Xử phạt tù từ mười ba năm đến dưới hai mươi năm nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới tám trăm triệu đồng trường hợp này phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS; - Xử phạt hai mươi năm tù nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng đến dưới hai tỷ đồng; - Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ hai tỷ đồng trở lên. Trong trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng mà không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn, đồng thời đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ xét thấy cần tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nặng hơn mức án được hướng dẫn trên, cụ thể như sau - Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới tám trăm triệu đồng; - Xử phạt tử hình nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng trở lên. 5. Đưa hội lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 289 Bộ luật hình sự Đối với hành vi đưa hối lộ, tuy cũng là hành vi phạm tội nguy hiểm và cũng bị trừng trị rất nghiêm khắc như đối với tội nhận hối lộ. Tuy nhiên, đối với người bị ép buộc phải đưa hối lộ hoặc sau khi đưa hối lộ đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì chính sách hình sự đối với họ là rất khoan hồng. Vì vậy, khoản 6 Điều 289 Bộ luật hình sự quy định “Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.” Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác là trường hợp trước khi đưa hối lộ, người có hành vi đưa hối lộ đã bị người nhận hối lộ hoặc bị người khác có những hành vi ép buộc để người đưa hối lộ phải đưa hối lộ. Hành vi ép buộc người khác phải đưa hối lộ là hành vi đe doạ để đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt buộc người khác phải đưa hối lộ cho mình hoặc cho người khác mà minh quan tâm. Người bị ép buộc không thể không đưa hối lộ, nếu không đưa thì chắc chắn quyền và lợi ích hợp pháp của mình không được bảo đảm thậm chí còn bị thiệt hại hơn, vì muốn được việc và biết đưa hối lộ là sai nhưng buộc phải đưa, vì bị ép buộc mà phải đưa chứ thực lòng không muốn làm như vậy. Người đưa hối lộ phải thật sự bị ép buộc nên phải đưa hối lộ mới được coi là không phạm tội, nếu mới có sự gợi ý, đòi hối lộ của người khác mà đã vội đưa hối lộ thì không được coi là không phạm tội. Chủ động khai báo trước khi bị phát giác là trường hợp việc đưa hối lộ chưa bị phát giác chưa ai biết gì mà người đưa hối lộ đã tự mình viết đơn hoặc trực tiếp đến cơ quan, tổ chức khai báo toàn bộ sự việc đưa hối lộ mà mình thực hiện, tố cáo hành vi ép buộc của người nhận hối lộ. Nếu bị ép buộc phải đưa hối lộ và việc đưa và nhận của hối lộ đó đã bị phát hiện, thấy không có cách nào che giấu được hành vi phạm tội của mình nữa mới tố giác, thì dù người đưa hối lộ có chủ động khai báo cũng không được loại trừ trách nhiệm hình sự. Bị ép buộc và chủ động khai báo là hai điều kiện cần và đủ để được coi là không phạm tội, nếu thiếu một trong hai điều kiện này thì người phạm tội vẫn bị coi là phạm tội đưa hối lộ. Tuy nhiên, người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Miễn trách nhiệm hình sự là hành vi đã cấu thành tội phạm nhưng do có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt là trước khi hành vi phạm tội bị phát giác đã khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên được miễn trách nhiệm hình sự. Trường hợp này cũng tương tự như trường hợp người phạm tội tự thú quy định tại khoản 2 Điều 25 Bộ luật hình Có thể coi quy định tại khoản 6 Điều 289 Bộ luật hình sự là trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự hoặc là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với hành vi đưa hối lộ, nên khi xác định trường hợp bị ép buộc cũng như việc chủ động khai báo của người đưa hối lộ phải thật chính xác, phải phù hợp với các tình tiết và diễn biến của vụ án. Nếu được coi là không phạm tội đưa hối lộ thì người có hành vi đưa hối lộ được trả lại toàn bộ của hối lộ đã đưa, nếu được miễn trách nhiệm hình sự thì người có hành vi đưa hối lộ được trả lại một phần hoặc toàn bộ của hối lộ đã đưa. 6. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội đưa hối lộ Ngoài hình phạt chính người phạm tội đưa hối lộ còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ. So với Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 5 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định hình phạt tiền mà không quy định hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Mặt khác, khoản 5 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định “có thể bị phạt...”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “thì bị phạt...” Vì vậy, đối với hành vi đưa hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 5 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. 13. TỘI LÀM MÔI GIỚI HỐI LỘ Điều 290. Tội làm môi giới hối lộ 1. Người nào làm môi giới hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm a Có tổ chức; b Dùng thủ đoạn xảo quyệt; c Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước; d Phạm tội nhiều lần; đ Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; e Gây hậu quả nghiêm trọng khác. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm a Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng; b Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm a Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên; b Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ. 6. Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Định nghĩa Làm môi giới hối lộ là hành vi làm trung gian giữa người đưa hối lộ với người nhận hối lộ để cho hai người này thực hiện hành vi đưa và nhận hối lộ. Tội làm mối giới hối lộ cũng là tội phạm được tách từ tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ quy định tại Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, do tách từ Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, nên nội dung của Điều 290 có nhiều thay đổi. Trước hết về hình phạt, Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt thấp nhất là sáu tháng tù và cao nhất là hai mươi năm tù. So với Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 290 nhẹ hơn nhiều. Các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại Điều 290 cũng có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội; quy định thêm trường hợp người phạm tội làm môi giới hối lộ cũng được miễn trách nhiệm hình sự như người đưa hối lộ mà Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Tội phạm này là tội phạm vừa có hành vi tương tự của tội nhận hối lộ vừa có hành vi tương tự của tội đưa hối lộ, vì là trung gian nên có lúc họ là người nhận tiền, tài sản của người đưa hối lộ để chuyển cho người nhận hối lộ, có khi lại là người đưa. Tuy nhiên, hành vi chuyển tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác từ người đưa hối lộ đến người nhận hối lộ người làm môi giới hối lộ chỉ đóng vai trò như một phương tiện để người đưa hối lộ và người nhận hối lộ thực hiện hành vi đưa và nhận hối lộ. Nếu người phạm tội lại có hành vi yêu cầu người đưa hoặc nhận hối lộ thì không còn là làm môi giới hối lộ nữa mà tuỳ trường hợp người phạm tội có thể là đồng phạm với người đưa hoặc người nhận hối lộ. 1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm Cũng như đối với tội đưa hối lộ, chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, người phạm tội không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn và cũng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Việc nhà làm luật quy định tội phạm này trong chương “các tội phạm về chức vụ” là vì khách thể của tội phạm chứ không phải vì chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội làm môi giới hối lộ cũng có thể là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm môi giới hối lộ, nhưng không phải là bắt buộc đối với tội phạm này. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người không có chức vụ, quyền hạn thì họ chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội làm môi giới hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Người dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội làm môi giới hối lộ quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng. Nếu giá trị của hối lộ dưới đồng thì người phạm tội phải là người đã vi phạm nhiều lần mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vi phạm nhiều lần là trường hợp đã có từ hai lần làm môi giới hối lộ nhưng chưa có lần nào đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, các làn vi phạm có thể dã có lần bị xử phạt hành chính hoặc xử lý kỷ luật nhưng chưa hết thời hạn được coi là xoá kỷ luật hoặc không coi là đã bị xâm phạm hành chính. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội làm môi giới hối lộ là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức bị thoái hoá biến chất. Làm môi giơi hối lộ chính là hành vi giúp sức, tiếp tay không chỉ cho một tội phạm mà cho nhiều tội phạm mà thể là tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ. 3. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là làm môi giới giữa người đưa và nhận hối lộ. Nhưng biểu hiện của hành vi làm môi giới hối lộ rất đa dạng. Người có hành vi làm môi giới hối lộ có thể gặp người nhận hối lộ để gợi ý thăm dò và đưa ra những yêu cầu của người đưa hối lộ hoặc nhận lời với người nhận hối lộ là sẽ tìm gặp người đưa hối lộ để đưa ra những điều kiện của người nhận hối lộ. Việc làm này có thể chỉ diễn ra một lần hoặc có thể diễn ra nhiều lần. Người có hành vi làm môi giơi hối lộ có thể chỉ thu xếp, bố trí thời gian, địa điểm để người đưa hối lộ và người nhận hối lộ tiếp xúc, giao thiệp với nhau về việc đưa và nhận hối lộ. Cũng có trường hợp người làm môi giới hối lộ có mặt trong cuộc tiếp xúc giữa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ để chứng kiến hoặc tham gia vào việc đưa và nhận hối lộ. Khi xác định hành vi làm môi giới hối lộ cần phân biệt với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nếu hành vi tuy có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi” theo Điều 283 Bộ luật hình sự. Nếu hành vi tuy có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi” theo Điều 291 Bộ luật hình sự. Nếu hành vi tuy có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người đưa hối lộ thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lửa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, người bị chiếm đoạt tài sản là người đưa hối lộ nên họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ và của hối lộ sẽ bị tịch thu sung quỹ Nhà nước. b. Hậu quả Hậu quả của tội phạm này không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, nếu của hối lộ chưa đến đồng thì hậu quả lại là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng phải là hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của con người; những thiệt hại về tài sản, uy tín của cơ quan, tổ chức và những thiệt hại phi vật chất khác. Hành vi làm môi giới hối lộ gây ra hậu quả nghiêm trọng, được xác định như là một nguyên nhân gián tiếp. Cũng như đối với các tội phạm khác về chức vụ, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra, nhưng tham khảo hướng dẫn của liên ngành về các tội xâm phạm sơ hữu, thì có thể coi hậu quả nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra nếu - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tội làm môi giới hối lộ người thực hiện hành vi phạm tội là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là làm môi giới hối lộ, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn việc đưa và nhận hối lộ được thực hiện, hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức bỏ mặc cho việc đưa và nhận hối lộ xảy ra. Người làm môi giới hối lộ có nhiều động cơ khác nhau, có thể vì tình cảm, có thể vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác; động cơ phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định động cơ để làm căn cứ khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội làm môi giới hối lộ không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội làm môi giới hối lộ. So với tội làm môi giới hối lộ quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì khoản 1 Điều 190 có khung hình phạt từ sáu tháng đến năm năm, trong khi đó khoản 1 Điều 227 có khung hình phạt từ một năm đến sáu năm, và nếu so sánh Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999, thì Điều 290 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với hành vi làm môi giới hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi áp dụng khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới sáu tháng tù hoặc cho người phạm tội được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới năm năm tù. 2. Môi giới hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, làm môi giới hối lộ có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án môi giới hối lộ có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Thực tiễn xét xử cho thấy, hành vi làm môi giới hối lộ có tổ chức ít xẩy ra hoặc nếu có xảy ra thì cũng khó phát hiện, vì làm môi giới hối lộ có tổ chức thường gắn liền với hành vi đưa hoặc nhận hối lộ có tổ chức, nên khó có thể phân biệt làm môi giới hối lộ với hành vi đưa hoặc nhận hối lộ có tổ chức. b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt Dùng thủ đoạn xảo quyệt để làm môi giới hối lộ là người phạm tội đưa hối lộ có những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người đưa và nhận hối lộ hoặc những người khác khó lường thấy được để đề phòng. Những mánh khoé, cách thức mà người làm môi hối lộ sử dụng rất đa dạng, nhưng chỉ coi là dùng thủ đoạn xảo quyệt đối với những mánh khoé, cách thức làm cho người nhận và người đưa hối lộ không thể từ chối hoặc nếu biết cũng không đối phó được. Nói chung, những mánh khoé, cách thức làm môi giới hối lộ mà người phạm tội sử dụng rất khó phát hiện hoặc nếu có bị phát hiện thì khó tìm được chứng cứ để buộc tội họ. c. Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước Trương hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 179 Bộ luật hình sự đối với tội nhận hối lộ và điểm c khoản 2 Điều 289 Bộ luật hình sự đối với tội đưa hối lộ. Tuy nhiên, trường hợp phạm tội này thường đối với người làm môi giới hối lộ là người biết người đưa hối lộ là người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội sẽ dùng tiền hoặc tài sản của cơ quan, tổ chức để đưa hối lộ cho người khác với động cơ cá nhân hoặc với động cơ vụ lợi cho cơ quan, tổ chức của mình. Ví dụ Nguyễn Hồng A là nhân viên của Công ty dịch vụ nhà đất đã nhận lời với Lê Văn K là Giám đốc Công ty xây dựng thuộc Tổng công ty xây dựng thành phố H tìm cách móc lối với Nguyễn Trọng Th. là Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh và là chủ đầu tư dự án phát triển khu đô thị mới. A đã nhiều lần gặp Th để thăm dò những thông tin vè dự án và báo cho K biết, đồng thời đưa K đến nhà Th để K xin Th cho Công ty của mình được đáu thầu xây dựng phần các công trình hạ tầng, nếu được K sẽ biếu ông Th 3% tổng giá trị công trình trúng thầu, ngoài 10% mà bên B phải trả cho bên A theo thoả thuận. Cũng như đối với các tội phạm khác có quy định tình tiết “tài sản Nhà nước”, khái niệm tài sản của Nhà nước cho đến nay vẫn còn ý kiến khác nhau đối với tài sản chỉ thuộc quyền sở hữu một phần của Nhà nước như Các công ty cổ phần, Công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các đơn vị liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với các đơn vị kinh tập thể hoặc tư nhân... Có thể còn ý kiến khác nhau về thế nào là tài sản của Nhà nước, nhưng chúng tôi cho rằng, về nguyên tắc, tài sản của Nhà nước phải thuộc sở hữu của Nhà nước. Nếu tài sản đó Nhà nước chỉ có quyền sở hữu một phần dù đó là phần lớn thì cũng chưa thể coi đó là tài sản của Nhà nước. d. Phạm tội nhiều lần Phạm tội làm môi giới hối lộ nhiều lần là có từ hai lần làm môi giới hối lộ trở lên và mỗi lầngilamf môi giới hối lộ đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý kỷ luật, phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. đ. Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng Đây là trường hợp người phạm tội làm môi giới hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng. Nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa hoặc nhận của hối lộ hoặc đã hứa đưa hoặc nhận hối lộ, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị của hối lộ thì phải trưng cầu giám định định giá. Điều luật quy định của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng, chứ không quy định người phạm tội đã môi giới hối lộ mà người đưa hoặc người nhận được của hối lộ có giá trị như trên, nên chỉ cần xác định người phạm tội có ý định môi giới hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự, còn đã đưa hoặc nhận được số tiền đó hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc. e. Gây hậu quả nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở khoản 1 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này là hậu quả nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ từ đồng đến dưới đồng. Nếu dưới đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng khác nếu do hành vi làm môi giới hối lộ mà - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 2 Điều 227, vì khoản 2 Điều 290 có khung hình phạt nhẹ hơn và nếu so sánh Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 290 nhẹ hơn, đồng thời khoản 2 Điều 290 có nhièu quy định có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, nếu hành vi làm môi giới hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội làm môi giới hối lộ theo khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, không tập trung nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới ba năm tù nhưng không được dưới sáu tháng tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì, khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 290 Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, lại tập trung nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, thì có thể bị phạt tới mười năm tù. 3. Làm môi giới hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự a. Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ Giá trị của hối lộ từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng. Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa hoặc nhận của hối lộ, hoặc đã hứa đưa hứa nhận của hối lộ có giá trị như trên; chỉ cần xác định người phạm tội sẽ làm môi giới hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự, còn người đưa hoặc người nhận đã đưa hoặc đã nhận được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc. b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng khác. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Cũng như đối với tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ và một số tội phạm khác, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng khác do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra - Làm chết hai người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm, cũng là tội phạm rất nghiêm trọng, nhưng so với khoản 2 của điều luật thì mức độ nghiêm trọng cao hơn. So với khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 3 Điều 227, vì khoản 3 Điều 290 có khung hình phạt nhẹ hơn và nếu so sánh Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 290 nhẹ hơn, đồng thời khoản 3 Điều 290 có nhiều quy định có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, nếu hành vi làm môi giới hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới tám năm tù nhưng không được dưới ba năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới mười lăm năm tù. 4. Làm môi giới hội lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự a. Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2, điểm a khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ Giá trị của hối lộ từ ba trăm triệu đồng trở lên. Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2, điểm a khoản 3 của điều luật, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa hoặc nhận của hối lộ hoặc đã hứa đưa hoặc nhận hối lộ; chỉ cần xác định người phạm tội làm môi giới hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên là thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự, còn của hối lộ đó đã đưa hoặc nhận được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc. b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2, điểm b khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Cũng như đối với tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra Làm chết ba người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 4 Điều 227, vì khoản 4 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, còn khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm. Mặt khác, nếu so sánh Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 290 nhẹ hơn, đồng thời khoản 4 Điều 290 có nhiều quy định có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, nếu hành vi làm môi giới hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 4 Điều 290 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới mười hai năm tù nhưng không được dưới tám năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 4 là khoản 3 Điều 290 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tuy có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, là người có nhân thân xấu, thì có thể bị phạt tới hai mươi năm tù. 5. Làm môi giới hội lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 290 Bộ luật hình sự Đối với hành vi làm môi giới hối lộ, người phạm tội sau khi đã thực hiện hành vi phạm tội đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự . Chủ động khai báo trước khi bị phát giác là trường hợp đã thực hiện hành vi làm môi giới hối lộ; việc đưa hoặc nhận hối lộ chưa thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng chưa bị phát giác chưa ai biết gì mà người làm môi giới hối lộ đã tự mình viết đơn hoặc trực tiếp đến cơ quan, tổ chức khai báo toàn bộ sự việc phạm tội mà mình thực hiện, góp phần vào việc ngăn chặn, phát hiện hoặc điều tra tội phạm. Chủ động khai báo trước khi hành vi bị bị phát hiện được coi như là trường hợp tự thú nên có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 25 Bộ luật hình sự. Có thể coi quy định tại khoản 6 Điều 290 Bộ luật hình sự là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với hành vi làm môi giới hối lộ, nên khi xác định trường hợp này phải đối chiếu với các quy định về miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 25 Bộ luật hình sự. Đây là quy định mới theo hướng có lợi cho người phạm tội mà Điều 227 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Vì vậy, đối với hành vi làm môi giới hối lộ thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 chưa bị phát hiện mà người phạm tội chủ động khai báo thì được áp dụng khoản 6 Điều 290 Bộ luật hình sự để miễn trách nhiệm hình sự đối với họ. 6. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội làm môi giới hối lộ Ngoài hình phạt chính người phạm tội làm môi giới hối lộ còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ. So với Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 5 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định hình phạt tiền mà không quy định hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Mặt khác, khoản 5 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định “có thể bị phạt...”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “thì bị phạt...” Vì vậy, đối với hành vi làm môi giới hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 5 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. 14. TỘI LỢI DỤNG ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CHỨC VỤ QUYỀN HẠN ĐỂ TRỤC LỢI Điều 291. Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi 1. Người nào trực tiếp hoặc qua trung gian nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm a Phạm tội nhiều lần; b Nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên; c Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền hoặc giá trị tài sản đã trục lợi. Định nghĩa Lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi là hành vi dùng ảnh hưởng của mình đối với người có chức vụ, quyền hạn nhằm thúc đẩy người này làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào. Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi là tội phạm đã được quy định tại Điều 228 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Điều 228 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 291 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều thay đổi như Quy định ranh giới giữa hành vi phạm tội với hành vi chưa phải là tội phạm; thêm các dấu hiệu là yếu tố định khung hình phạt tại khoản 2 của điều luật; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng một điều luật A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Tội phạm này có dấu hiệu của tội nhận hối lộ nhưng không phải là nhận hối lộ vì người nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất của người khác, nhưng không có hành vi làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của mình hoặc làm một việc không được phép làm, mà hành vi này lại do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện do bị thúc đẩy. Có thể nói, trong vụ án lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi, có người đưa hối lộ nhưng lại không có người nhận hối lộ, vì người nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác không phải người phạm tội nhận hối lộ; không có hành vi nhận hối lộ trong vụ án lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi. Trong xã hội hiện nay, loại tội phạm này tương đối phổ biến và thường xảy ra trong trường hợp người phạm tội là người có ảnh hưởng lớn đối với người có chức vụ, quyền hạn; họ thường là những người đang có chức vụ, quyền hạn hoặc đã từng là người có chức vụ, quyền hạn là thủ trưởng, cấp trên của người đang có chức vụ, quyền hạn; nếu không phải là người đã từng có chức vụ, quyền hạn thì họ người thân thích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc có mối quan hệ xã hội có ảnh hưởng lớn đến người có chức vụ, quyền hạn như là ân nhân, là thấy giáo, cô giáo, bạn học... 1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, người phạm tội không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn và cũng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, mà chỉ lợi dụng ảnh hưởng của mình đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi. Việc nhà làm luật quy định tội phạm này trong chương “các tội phạm về chức vụ” là vì khách thể của tội phạm chứ không phải vì chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi cũng có thể là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi, nhưng không phải là bắt buộc đối với tội phạm này. Người phạm tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi có thể là người đang có chức vụ, quyền hạn, nhưng họ không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, mà họ chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chi phối người có chức vụ, quyền hạn khác làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Cũng có trường hợp người phạm tội chỉ là người đã giữ những chức vụ, quyền hạn nên có ảnh hưởng nhất định đối với người đang có chức vụ, quyền hạn và người đang có chức vụ, quyền hạn vì nể, thậm chí sợ người này mà làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm. Ví dụ Nguyễn Trọng M, nguyên là chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện đã nghỉ hưu. Trước khi nghỉ hưu, M đã giới thiệu ông Hoàng Ngọc H lúc đó là Phó chủ tịch để thay M, nên giữa ông H và M có mối quan hệ và M có ảnh hưởng rất lớn đối với ông H. Đỗ Xuân Đ là cháu M vừa tốt nghiệp đại học thuỷ lợi được phân công lên mièn núi công tác, Đ không muốn lên miền núi nên đã đến nhờ M tác động với ông H để ông H nhận Đ về Uỷ ban nhân dân huyện. M nhận lời và đã tác động với ông H xincho Đ vào công tác ở Uỷ ban nhân dân huyện, vì nể M nên ông H đồng ý nhận Đ vào công tác ở Uỷ ban nhân dân huyện. Để trả ơn M, Đỗ Xuân Đ đã biếu M một dàn máy DC gồm một màn hình 21 in, một bộ âm ly và hai chiéc loa thùng trị giá USD. Ngoài những người đang hoặc đã có chức vụ, quyền hạn, chủ thẻ của tội phạm này còn gồm những người khác như Người có quan hệ thân thích với người có chức vụ, quyền hạn ông, bà, cha, mẹ, anh, chị em ruột, con, cô, dì, chú, bác...; người có quan hệ lệ thuộc với người có chức vụ, quyền hạn thầy giáo đối với học sinh, bác sỹ đối với người bệnh, người nuôi dưỡng với người được nuôi dưỡng, chủ nợ với con nợ...; bạn bè, đồng đội... Nếu tiền hoặc tài sản mà người phạm tội được lợi dưới đồng thì phải kèm theo điều kiện đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm mới bị coi là phạm tội. Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này là đã bị xử lý kỷ luật về hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn được xoá kỷ luật, nay lại có hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi thì mới cấu thành tội phạm. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý kỷ luật, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi, thì cũng chưa cấu thành tội phạm này. Việc nhà làm luật chỉ quy định đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm chỉ phù hợp với người phạm tội là người đang có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức nhưng không phù hợp với người phạm tội là người thân thích, là người có quan hệ lệ thuộc với người có chức vụ, quyền hạn hoặc họ chỉ là bạn bè của người có chức vụ, quyền hạn. Phải chăng, nhà làm luật chỉ giới hạn chủ thể của tội phạm này là cán bộ, công chức ? Đây là vấn đề cả về lý luận và thực tiễn cần phải làm rõ. Người có hành vi dùng ảnh hưởng của mình đối với người có chức vụ, quyền hạn, trong thực tế không chỉ có người có chức vụ, quyền hạn mới dùng ảnh hưởng của mình đối với người có chức vụ, quyền hạn mà có nhiều trường hợp họ chỉ là người thân của người có chức vụ, quyền hạn. Ví dụ Trần Thị H là nhân tình của ông Bùi Văn N, giám đốc Công ty dịch vụ, thương mại thành phố Q; thị H chỉ là người làm nghề buôn bán tự do không phải là cán bộ, công chức, cũng không phải là thành viên trong bất cứ tổ chức nào. Nhưng vì là tình nhân của N nên thị H đã dùng ảnh hưởng của mình tác động ông N, để ông N nhận Nguyễn Thị Kim Th một sinh viên mới ra trường vào làm việc tại Công ty do N làm giám đốc và thị H đã nhận của chị Th nhiều lần với tổng só tiền là đồng. Rõ ràng trong trường hợp này thị H không phải là người có chức vụ, quyền hạn hoặc là cán bộ, công chức, nếu thị H nhiều lần nhận dưới đồng thì không cấu thành tội phạm vì không thể xử lý kỷ luật thị H được, mà chỉ có thể xử phạt hành chính, nhưng điều luật chỉ quy định đã bị xử lý kỷ luật dẫn đến việc trong thực tễ có một số đối tượng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội này. Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, không bỏ lọt người phạm tội, chúng tôi thiết nghĩ khi có điều kiện sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự, nhà làm luật thì nên bổ sung trường hợp người phạm tội nhận tiền dưới đồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này. Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người không có chức vụ, quyền hạn thì họ chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 291 Bộ luật hình sự, vì trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng. Người dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 291 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi cũng tương tự như khách thể của tội nhận hối lộ hoặc tội đưa hối lộ, đó là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức bị thoái hoá biến chất. 3. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội có hai hành vi khách quan Dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ quyền hạn và hành vi nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào. Dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ quyền hạn là lợi dụng mối quan hệ giữa mình với người có chức vụ, quyền hạn để yêu cầu, thúc dục, chi phối người này làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm. Biểu hiện của hành vi thúc đẩy có thể là trực tiếp yêu cầu; viết thư, gọi điện thoại; thông qua người khác để yêu cầu... Việc yêu cầu này có thể là một lần, nhưng có thể là nhiều lần cho đến khi yêu cầu đó được đáp ứng. Nội dung của yêu cầu mà người phạm tội đưa ra là vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người mà người phạm tội nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Người có chức vụ, quyền hạn bị thúc đẩy thực hiện yêu cầu của người phạm tội tương tự như hành vi khách quan của người nhận hối lộ. Tuy nhiên, họ làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm là vì người phạm tội chứ không vì người được hưởng lợi ích do người có chức vụ, quyền hạn đem lại. Nhưng người có chức vụ, quyền hạn khi làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm biết rõ sẽ đem lại lợi ích cho ai, nhưng họ vẫn làm để vừa lòng người phạm tội. Người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ quy định tại Điều 281 Bộ luật hình sự hoặc tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ quy định tại Điều 282 Bộ luật hình sự, nếu họ không nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Tuy nhiên, nếu người có chức vụ, quyền hạn làm đúng, còn việc thúc đẩy của người dùng ảnh hưởng chỉ là điều kiện để người có chức vụ, quyền hạn làm nhanh hơn thì hành vi của người có chức vụ, quyền hạn không phải là hành vi phạm tội. Hành vi nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào là hành vi của người nhận hối lộ trong tội nhận hối Họ là người trực tiếp hoặc qua trung gian để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người “nhờ” người phạm tội. Hành vi của người đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác cho người phạm tội có thể là hành vi phạm tội đưa hối lộ hoặc có thể chỉ là người bị hại trong vụ án lừa đảo nếu người nhận tiền không có hành vi thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm. b. Hậu quả Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, vì số tiền mà người phạm tội nhận không phải là hậu quả của tội phạm này mà nó chỉ là hành vi khách quan hành vi nhận tiền, còn số tiền bao nhiêu lại là phương tiện thực hiện tội phạm, còn hậu quả của tội phạm này chỉ là những thiệt hại về tài sản, tinh mạng, sức khoẻ và những thiệt hại nghiêm trọng khác do hành vi phạm tội gây ra. Tuy nhiên, nếu tiền hoặc tài sản mà người phạm tội nhận chưa đến đồng thì hậu quả nghiêm trọng lại là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tiền hoặc tài sản mà người phạm tội nhận chưa đến đồng và không thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm thì chưa cấu thành tội phạm, vì chưa thoả mãn dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm chứ không phải vì chưa có hậu quả xảy ra. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của con người; những thiệt hại về tài sản, uy tín của cơ quan, tổ chức và những thiệt hại phi vật chất khác. Cũng như đối với một số tội phạm khác trong chương này, tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi gây ra, nhưng tham khảo hướng dẫn của liên ngành về các tội xâm phạm sơ hữu, thì có thể coi hậu quả nghiêm trọng do hành vi làm môi giới hối lộ gây ra nếu - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi, người thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Mục đích của tội phạm này lại là dấu hiệu bắt buộc, nếu người phạm tội không có mục đích trục lợi thì người có hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn không cấu thành tội phạm này. Dấu hiệu trục lợi quy định trong cấu thành tội phạm này không phải là động cơ mà là mục đích. Còn động cơ của người phạm tội trước hết là vì tư lợi, ngòi ra có thể vì động cơ khác. Nhà làm luật không quan tâm đến động cơ của người phạm tội mà chỉ quy định mục đích để trục lợi. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 291 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi. So với tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 291 Bộ luật hình sự năm 1999, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 1 Điều 228 và khoản 1 Điều 291 không nhẹ hơn và cũng không nặng hơn. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 291 có quy theo hướng có lợi cho người phạm tội như tiền hoặc tài có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, mà khoản 1 Điều 228 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định. Vì vậy, đối với hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 291 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi áp dụng khoản 1 Điều 291 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới một năm tù hoặc cho người phạm tội được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới năm năm tù. 2. Lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 291 Bộ luật hình sự a. Phạm tội nhiều lần Phạm tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi nhiều lần là có từ hai lần lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi trở lên và mỗi lần lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý kỷ luật, phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. b. Nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên; Đây là trường hợp người phạm tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi mà người phạm tội nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên. Nếu không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm người phạm tội nhận hoặc đã yêu cầu người khác phải đưa, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định định giá. Điều luật quy định nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên, chứ không quy định người phạm tội đã nhận, nên chỉ cần xác định người phạm tội có ý định nhận hoặc đã có hành vi yêu cầu người khác phải đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên là thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 291 Bộ luật hình sự, còn đã nhận được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc. Nếu chưa nhận được hoặc nhận chưa đủ ssos tiền đã thoả thuận hoặc đã yêu cầu thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt nhưng vẫn thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 của Điều 291 Bộ luật hình sự. c. Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác. Cũng tương tự như đối với một số tội phạm khác, nhà làm luật quy định ba mức hậu quả khác nhau trong cùng một khung hình phạt, nên các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải xác định từng loại hậu quả trên cơ sở đó để cá thể hoá mức hình phạt đối với người phạm tội. Gây hậu quả nghiêm trọng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở khoản 1 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này là hậu quả nghiêm trọng do hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi từ đồng đến dưới đồng. Nếu dưới đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng nếu do hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi mà - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng Gây hậu quả rất nghiêm trọng Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi gây ra - Làm chết hai người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; - Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác do hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi làm lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi gây ra Làm chết ba người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 291 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 228 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 2 Điều 291 Bộ luật hình sự năm 1999 không nhẹ hơn và cũng không nặng hơn khoản 2 Điều 228, nhưng khoản 2 Điều 291 quy định các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt cụ thể hơn, trong khi khoản 2 Điều 228 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định một trường hợp, đó là “phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng”. Mặt khác, trong thực tiễn xét xử chưa có trường hợp nào áp dụng khoản 2 Điều 228 Bộ luật hình sự năm 1985 nên cũng chưa có hướng dẫn như thế nào là phạm tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi trong trường hợp nghiêm trọng. Vì vậy, phải coi quy định tại khoản 2 Điều 291 là quy định mới, nên hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 291 Bộ luật hình sự năm 1999, thì áp dụng khoản 2 Điều 228 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 291 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người người phạm tội chỉ gây hậu quả nghiêm trọng và có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới ba năm tù nhưng không được dưới một năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 291 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tuy có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, là người có nhân thân xấu, thì có thể bị phạt tới mười năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền hoặc giá trị tài sản đã trục lợi. So với Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 3 Điều 291 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định hình phạt tiền mà không quy định hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Mặt khác, khoản 3 Điều 291 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định “có thể bị phạt...”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “thì bị phạt...” Vì vậy, đối với hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 3 Điều 291 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. HẾT Phần phụ lục PHÁP LỆNH CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI SỐ 03/1998/PL-UBTVQH10 NGÀY 26 THÁNG 02 NĂM 1998 VỀ VIỆC CHỐNG THAM NHŨNG Để nâng cao hiệu quả của việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng, tăng cường kỷ cương pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992; Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 2 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 1998; Pháp lệnh này quy định các biện pháp phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng. CHƯƠNG I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG Điều 1 Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Người có hành vi tham nhũng phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Điều 2 Người có chức vụ, quyền hạn quy định trong Pháp lệnh này bao gồm 1. Cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân theo quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức; 2. Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; 3. Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước; 4. Cán bộ xã, phường, thị trấn; 5. Những người khác được giao nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó. Điều 3 Các hành vi tham nhũng quy định trong Pháp lệnh này bao gồm 1. Tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa; 2. Nhận hối lộ; 3. Dùng tài sản xã hội chủ nghĩa làm của hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đưa hối lộ, môi giới hối lộ; 4. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa; 5. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa; 6. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của cá nhân; 7. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; 8. Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; 9. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để vụ lợi; 10. Lập quỹ trái phép để vụ lợi; 11. Giả mạo trong công tác để vụ lợi. Điều 4 Mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện kịp thời. Người có hành vi tham nhũng bất kỳ ở cương vị, chức vụ nào đều phải bị xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Tài sản bị chiếm đoạt do hành vi tham nhũng phải được thu hồi; tài sản do tham nhũng mà có phải bị tịch thu; người có hành vi tham nhũng gây thiệt hại thì phải bồi thường. Điều 5 Người có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo, tích cực hạn chế thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra, nộp lại tài sản đã tham nhũng, thì tuỳ từng trường hợp mà được xem xét giảm nhẹ hoặc miễn xử lý kỷ luật, giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Người có hành vi tham nhũng mà dùng thủ đoạn xảo quyệt để che giấu hành vi vi phạm, cản trở cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc phát hiện, xử lý thì bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật. Điều 6 Công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng, tham gia phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng khi người đó bị đe dọa, trả thù, trù dập. Cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong quá trình thanh tra, điều tra, xử lý người có hành vi tham nhũng. Điều 7 Người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng, xử lý và tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý người có hành vi tham nhũng; nếu thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức mình thì bị xử lý theo quy định của pháp luật. Điều 8 Các cơ quan Thanh tra, Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong việc phát hiện hành vi tham nhũng; xử lý người có hành vi tham nhũng và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận, quyết định của mình trong quá trình thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử các vụ tham nhũng. Điều 9 Chính phủ tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra các cấp, các ngành thực hiện việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng ở Bộ, ngành, địa phương. Điều 10 Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát các cơ quan, tổ chức trong việc phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng và xử lý người có hành vi tham nhũng; khi phát hiện có hành vi tham nhũng có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp cần thiết để kịp thời ngăn chặn hành vi tham nhũng và xử lý người có hành vi tham nhũng. Điều 11 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm động viên nhân dân tham gia tích cực vào việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng; yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kết luận, xử lý vụ tham nhũng; giám sát việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa hành vi tham nhũng và xử lý người có hành vi tham nhũng. Tổ chức thanh tra nhân dân được thành lập ở cơ sở theo quy định của pháp luật dưới sự hướng dẫn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, công đoàn cơ sở, có trách nhiệm phát hiện, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý và giám sát việc xử lý người có hành vi tham nhũng tại cơ quan, tổ chức, địa phương mình. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét lại quyết định xử lý vụ tham nhũng, nếu thấy việc xử lý chưa nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải xem xét và trả lời cho tổ chức đã kiến nghị, yêu cầu. Điều 12 Cơ quan thông tin, báo chí có trách nhiệm tham gia vào việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng; khi đưa tin công khai phải bảo đảm chính xác, trung thực, khách quan theo quy định của pháp luật về báo chí và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đưa tin đó. CHƯƠNG II CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA, PHÁT HIỆN THAM NHŨNG Điều 13 1. Người có chức vụ, quyền hạn không được làm những việc sau đây a Sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà trong khi giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân; b Nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến công việc mà mình giải quyết; c Chi tiền công quỹ cho việc tặng quà hoặc chia cho cán bộ, công chức và những người khác ngoài quy định của Nhà nước; d Can thiệp bất hợp pháp vào việc xem xét, giải quyết lợi ích cho mình, cho người khác hoặc để người khác lợi dụng ảnh hưởng của mình làm trái pháp luật, thu lợi bất chính; đ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vay, cho vay tiền của công quỹ, của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bảo lãnh cho người khác vay tiền của công quỹ, của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng; e Dùng tiền công quỹ, nhà, đất hoặc tài sản khác của cơ quan, tổ chức hoặc lợi dụng công sức của người do mình quản lý để thu lợi bất chính; g Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm dụng đất, sử dụng đất để phát canh thu tô hoặc kinh doanh trái pháp luật dưới các hình thức khác; h Tiết lộ thông tin kinh tế và các thông tin khác chưa được phép công bố; i Gửi tiền, kim khí quý, đá quý vào ngân hàng nước ngoài. 2. Những người quy định tại các điểm 1, 2 và 3 Điều 2 của Pháp lệnh này không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý điều hành các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư, tổ chức nghiên cứu khoa học tư. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con của những người đó không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước. Đối với các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, thì cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ của doanh nghiệp, vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con của họ làm việc tại doanh nghiệp đó chỉ được mua cổ phần không vượt quá mức cổ phần bình quân của các cổ đông. 3. Người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức không được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của mình giữ chức vụ lãnh đạo về tổ chức nhân sự, kế toán - tài vụ; làm thủ quỹ, thủ kho trong cơ quan, tổ chức hoặc mua bán vật tư, hàng hóa, giao dịch, ký kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức đó. 4. Chính phủ quy định chi tiết việc áp dụng những quy định tại Điều này. Điều 14 1. Người có chức vụ, quyền hạn phải kê khai nhà, đất và các loại tài sản khác có giá trị lớn của mình. 2. Người kê khai phải kê khai chính xác, trung thực và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai. 3. Chính phủ quy định cụ thể đối tượng phải kê khai, các loại tài sản phải kê khai, thời điểm, trình tự và thủ tục kê khai. Điều 15 1. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực nhà, đất, xây dựng, đăng ký kinh doanh, xét duyệt dự án, cấp vốn ngân sách nhà nước, tín dụng, ngân hàng, xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, quản lý hộ khẩu, thuế, hải quan, bảo hiểm và các cơ quan khác trực tiếp giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải công khai thủ tục hành chính, giải quyết đúng thời hạn, đúng pháp luật và đúng yêu cầu hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nghiêm cấm việc tự đặt ra các thủ tục, phí, lệ phí ngoài quy định của pháp luật. 2. Việc cấp phát, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước, vốn và tài sản nhà nước cho các dự án, chương trình có mục tiêu đã được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phê duyệt phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đúng nội dung đã được phê duyệt và phải công khai cho các cơ quan, tổ chức có liên quan và nhân dân nơi trực tiếp sử dụng biết. 3. Việc huy động nguồn vốn đóng góp của nhân dân để đầu tư xây dựng các công trình, lập các quỹ ngoài quy định của Nhà nước phải được nhân dân bàn bạc, quyết định. Việc sử dụng nguồn vốn đó phải đúng mục đích, công khai để nhân dân giám sát và chịu sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều 16 1. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải gương mẫu, liêm khiết; định kỳ kiểm điểm việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ và kiểm điểm trách nhiệm của mình trong việc phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng. 1. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải thường xuyên tiến hành kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền; áp dụng các biện pháp phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng và thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Điều 17 Người có chức vụ, quyền hạn không thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ được giao, để người khác vi phạm pháp luật thu lợi bất chính, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 18 Khi phát hiện hành vi tham nhũng, công dân có trách nhiệm kịp thời tố cáo với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhận được tố cáo về hành vi tham nhũng phải kịp thời xử lý theo quy định của pháp luật; giữ bí mật họ tên, địa chỉ của người tố cáo. Điều 19 1. Người tố cáo kịp thời hành vi tham nhũng, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng thì được xét khen thưởng thích đáng theo quy định của Chính phủ. Người tố cáo hành vi tham nhũng có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền để bảo vệ người tố cáo. 2. Nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng quyền tố cáo để vu cáo làm thiệt hại đến danh dự, uy tín và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Người vu cáo phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Điều 20 Trong quá trình thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan Thanh tra, Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật để phát hiện nhanh chóng, chính xác hành vi tham nhũng và xử lý kịp thời, nghiêm minh người có hành vi tham nhũng. Người được giao nhiệm vụ thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử do thiếu trách nhiệm mà để lọt người có hành vi tham nhũng, lọt hành vi tham nhũng, cố ý vi phạm các quy định của pháp luật, bao che cho người có hành vi tham nhũng hoặc làm oan người vô tội, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. CHƯƠNG III XỬ LÝ CÁC HÀNH VI THAM NHŨNG Điều 21 Người có một trong những hành vi tham nhũng sau đây phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự 1. Tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của cá nhân mà giá trị tài sản từ năm triệu đồng trở lên hoặc dưới năm triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, vi phạm nhiều lần, đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm; 2. Nhận hối lộ hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để vụ lợi từ năm trăm ngàn đồng trở lên hoặc dưới năm trăm ngàn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, vi phạm nhiều lần, đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm; 3. Dùng tài sản xã hội chủ nghĩa làm của hối lộ hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đưa hối lộ, môi giới hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ năm trăm ngàn đồng trở lên hoặc dưới năm trăm ngàn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần; 4. Vì vụ lợi mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn lập quỹ trái phép có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên và đã sử dụng quỹ đó gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm; 5. Vì vụ lợi mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm; 6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa; vì vụ lợi mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, lạm quyền trong khi thi hành công vụ, giả mạo trong công tác gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Điều 22 Người có hành vi tham nhũng nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, giá trị tài sản tham nhũng, mức độ thiệt hại và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ quy định tại Điều 23 của Pháp lệnh này mà bị xử lý bằng một trong các hình thức kỷ luật sau đây 1. Khiển trách; 2. Cảnh cáo; 3. Hạ bậc lương; 4. Hạ ngạch; 5. Cách chức, bãi nhiệm; 6. Buộc thôi việc. Điều 23 1. Các tình tiết tăng nặng để xem xét áp dụng hình thức kỷ luật đối với người có hành vi tham nhũng a Dùng thủ đoạn xảo quyệt che giấu hành vi vi phạm của mình; b Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng của mình; c Không chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc nộp lại tài sản tham nhũng hoặc bồi thường thiệt hại do hành vi tham nhũng của mình gây ra. 2. Các tình tiết giảm nhẹ để xem xét áp dụng hình thức kỷ luật đối với người có hành vi tham nhũng a Chủ động khai báo hành vi tham nhũng trước khi bị phát hiện; b Tích cực hạn chế thiệt hại do hành vi tham nhũng của mình gây ra; c Tự giác nộp lại tài sản tham nhũng, bồi thường thiệt hại do hành vi tham nhũng của mình gây ra. Điều 24 Người có hành vi tham nhũng bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, bãi nhiệm thì bị chuyển công tác khác không liên quan đến công việc dễ xảy ra tham nhũng. Người có hành vi tham nhũng bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc, thì không được tiếp nhận làm cán bộ, công chức trong thời gian từ ba năm đến năm năm, kể từ ngày có quyết định kỷ luật. Người có hành vi tham nhũng là thành viên của cơ quan, tổ chức có điều lệ hoặc quy chế riêng thì ngoài việc bị xử lý kỷ luật theo quy định của Pháp lệnh này, còn bị xử lý theo điều lệ hoặc quy chế của cơ quan, tổ chức đó. Người có hành vi tham nhũng làm việc theo chế độ hợp đồng lao động thì bị xử lý theo quy định của Bộ luật lao động và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Điều 25 Người đứng đầu cơ quan, tổ chức khi phát hiện hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức mình thì phải xem xét và xử lý người có hành vi tham nhũng theo thẩm quyền, áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi tài sản đã bị chiếm đoạt và thông báo cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền biết; trong trường hợp có dấu hiệu của tội phạm thì phải chuyển hồ sơ hoặc báo ngay cho cơ quan Điều tra hoặc Viện kiểm sát để xem xét, xử lý. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức không xử lý theo thẩm quyền hoặc không chuyển các vụ tham nhũng có dấu hiệu của tội phạm đến cơ quan Điều tra hoặc Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật thì bị xử lý về hành vi bao che. Không được chuyển công tác, cho thôi việc hoặc hưu trí đối với người đang bị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét về hành vi tham nhũng. Người có hành vi tham nhũng đã chuyển công tác, thôi việc hoặc hưu trí trước khi bị phát hiện vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi tham nhũng đó. Điều 26 Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về tham nhũng, các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có trách nhiệm xử lý nghiêm minh, kịp thời tội phạm về tham nhũng, áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để thu hồi tài sản đã bị chiếm đoạt. Điều 27 1. Trong quá trình thanh tra, thủ trưởng cơ quan Thanh tra nhà nước có quyền áp dụng các biện pháp sau đây a Yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác của người có hành vi tham nhũng nếu có căn cứ để cho rằng người đó có thể tiếp tục thực hiện hành vi tham nhũng hoặc cản trở việc thanh tra; b Niêm phong tài liệu, kê biên tài sản của cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra đã được xác định là có liên quan đến vụ tham nhũng; c áp dụng các biện pháp khác theo quy định của pháp luật về thanh tra. Khi áp dụng các biện pháp quy định tại khoản này, các cơ quan Thanh tra nhà nước phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc áp dụng các biện pháp đó. 2. Khi có căn cứ kết luận hành vi tham nhũng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, thì thủ trưởng cơ quan Thanh tra nhà nước chuyển hồ sơ cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền yêu cầu xử lý kỷ luật người có hành vi tham nhũng, áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi tài sản đã bị chiếm đoạt. 3. Khi xét thấy vụ tham nhũng có dấu hiệu của tội phạm thì thủ trưởng cơ quan Thanh tra nhà nước phải chuyển ngay hồ sơ đến cơ quan Điều tra hoặc Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật. Điều 28 Khi nhận được yêu cầu của cơ quan Thanh tra nhà nước, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, thì trong thời hạn chậm nhất là ba mươi ngày, người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải thực hiện yêu cầu đó; trong trường hợp không thực hiện được phải nêu rõ lý do bằng văn bản. Điều 29 Khi nhận được hồ sơ do cơ quan, tổ chức chuyển đến, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát phải xem xét, xử lý kịp thời theo thẩm quyền, áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi tài sản đã bị chiếm đoạt và thông báo cho cơ quan, tổ chức đã chuyển đến biết kết quả. Điều 30 Người bao che cho người có hành vi tham nhũng, cản trở, can thiệp việc phát hiện, xử lý người có hành vi tham nhũng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý bằng một trong các hình thức kỷ luật quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh này hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người có hành vi trả thù, trù dập người phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng thì bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật. CHƯƠNG IV TRÁCH NHIỆM VÀ MỐI QUAN HỆ PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC TRONG VIỆC PHÒNG NGỪA VÀ XỬ LÝ NGƯỜI CÓ HÀNH VI THAM NHŨNG Điều 31 Các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp trong việc điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về tham nhũng. Viện kiểm sát nhân dân các cấp có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình phát hiện và xử lý các tội phạm về tham nhũng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và thông báo đến Thủ tướng Chính phủ tình hình xử lý các tội phạm về tham nhũng. Điều 32 Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm báo cáo với cơ quan, tổ chức cấp trên và thông báo đến cơ quan Thanh tra nhà nước cùng cấp về việc phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng và xử lý kỷ luật đối với người có hành vi tham nhũng thuộc phạm vi trách nhiệm của mình. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chánh thanh tra các cấp, các ngành có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc việc phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng trong các cơ quan, tổ chức thuộc Bộ, ngành, địa phương mình; báo cáo với thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp và cơ quan Thanh tra nhà nước cấp trên về công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng. Tổng Thanh tra nhà nước chủ trì phối hợp với Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thủ trưởng cơ quan hữu quan giúp Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các cấp, các ngành trong việc phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng và xử lý người có hành vi tham nhũng; tổng hợp tình hình, báo cáo Chính phủ về công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong phạm vi cả nước. Điều 33 Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng; báo cáo Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước về công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong phạm vi cả nước. Khi cần thiết, Thủ tướng Chính phủ làm việc với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan để thống nhất chỉ đạo công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng. Điều 34 Người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm áp dụng các biện pháp phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng và xử lý người có hành vi tham nhũng. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm báo cáo Thủ tướng Chính phủ về công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng thuộc phạm vi Bộ, ngành, địa phương mình. Điều 35 Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội giám sát việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng và xử lý người có hành vi tham nhũng; giám sát hoạt động thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử các vụ tham nhũng. Điều 36 Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp giám sát việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng và xử lý người có hành vi tham nhũng; giám sát các hoạt động thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử các vụ tham nhũng ở địa phương. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp và thông báo cho Mặt trận Tổ quốc cùng cấp về công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng ở địa phương. CHƯƠNG V ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH Điều 37 Pháp lệnh này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 5 năm 1998. Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bãi bỏ. Điều 38 Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này. 1 Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17-11-1998 của Chính phủ về xử lý lỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức thì “ Kể từ ngày có quyết dịnh kỷ luật sau 12 tháng nếu công chức không tái phạm và không có những vi phạm dến mức phải xử lý kỷ luật thì cơ quan, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định chấm dứt hiệu lực kỷ luật” 2 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 3 Khi tác giả viết bình luận Chương các tội phạm về chức vụ, cũng như khi viết các bình luận các chương đã xuất bản từ tập 1 đến tập 4 chưa có hướng dẫn tại các Thông tư liên tịch của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an và Bộ Tư pháp. 4 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Căn cứ quyết định hình phạt 5 Nguyên tắc này áp dụng chung cho tất cả các trường hợp phạm tội nên chúng tôi chỉ nêu một lần và không nhắc lại khi phân tích các trường hợp phạm tội khác, mà chỉ nếu những tình tiết khác chỉ riêng trường hợp phạm tội đó có. 6 Xem chú thích sô 4. 7 Xem chú thích sô 4. 8 Xem chú thích sô 4. 9 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 10 Xem chú thích sô 4 11 Xem Vũ Thiện Kim “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, các tội xâm phạm tài sản của công dân” Phòng tuyên truyền Tập san Toà án nhân dân tối cao. Hà Nội năm 1980. tr 204. 12 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 13 Xem chú thích sô 4. 14 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 15 Xem chú thích sô 4. 16 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 17 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 18 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Căn cứ quyết định hình phạt 19 Xem chú thích số 5 20 Xem Đinh văn Quế “ Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự” NXB Chính trị quốc gia. năm 2000. Tr 30-32. 21 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 22 Xem chú thích sô 4. 23 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 24 Xem chú thích sô 4. 25 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 26 Xem chú thích sô 4. 27 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 28 Xem chú thích sô 4. 29 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 30 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 31 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 32 Xem chú thích sô 4. 33 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 34 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 35 Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng Trung tâm từ điển học Hà Nội-Đà Nẵng. 1997. Tr 851,929. 36 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 37 Xem chú thích sô 4 38 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 39 Xem chú thích sô 4. 40 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 41 Xem chú thích sô 4. 42 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 43 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 44 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 45 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 46 Xem tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước trong cuốn “ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm tâp II” NXB thành phố Hồ Chí Minh năm 2002. Tr 307-317. 47 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 48 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 49 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 50 Xem các Điều 6, 7 và 8 Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước ngày 28-10-1991 của Hội đồng Nhà nước . 51 Xem Quyết định số 208/TTg ngày 6 tháng 4 năm 1995 của Thủ tướng chính phủ về danh mục bí mật Nhà nước của Toà án nhân dân tối cao. 52 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 53 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 54 Xem danh mục tài liệu bí mật Nhà nước, bí mật công tác quy định trong Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước đã nêu ở tội cố ý làm lộ bí mật công tác. 55 Xem dẫn tại Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 về các trường hợp hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 56 Xem Vô ý phạm tội trong cuốn “Bình luận Bộ luật hình sự năm 1999 - phần chung”. NXB thành phố Hồ Chí Minh. năm 2000. tr. 71 cùng tác giả 57 Xem danh mục tài liệu bí mật Nhà nước, bí mật công tác quy định trong Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước đã nêu ở tội cố ý làm lộ bí mật công tác. 58 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 59 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 60 Xem chú thích sô 4. 61 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 62 Xem chú thích sô 4. 63 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 64 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Tr 153-165 Miẽn trách nhiệm hình sự . 65 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 66 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 67 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 68 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 69 Xem Hành vi nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào của tội nhận hối lộ. 70 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 71 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 72 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 72 Xem Thông tư liên tịch số Số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999
Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp. Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose. ĐINH VĂN QUẾ THẠC SĨ LUẬT HỌC – TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO BÌNH LUẬN KHOA HỌC BỘ LUẬT HÌNH SỰ PHẦN CÁC TỘI PHẠM TẬP VI CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ BÌNH LUẬN CHUYÊN SÂU NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LỜI GIỚI THIỆU Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999. Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28-12-1989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997. Bộ luật hình sự năm 1999 không chỉ thể hiện một cách toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, mà còn là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới về tội phạm và hình phạt. Do đó việc hiểu và áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm và hình phạt là một vấn đề rất quan trọng. Ngày 17 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 04/2000/CT-TTg về việc tổ chức thi hành Bộ luật hình sự đã nhấn mạnh "Công tác phổ biến, tuyên truyền Bộ luật hình sự phải được tiến hành sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức, chiến sỹ thuộc lực lượng vũ trang và trong nhân dân, làm cho mọi người năm được nội dung cơ bản của Bộ luật, nhất là những nội dung mới được sửa đổi bổ sung để nghiêm chỉnh chấp hành". Với ý nghĩa trên, tiếp theo cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm tập V- Các tội phạm về chức vụ Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tiếp cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm Tập VI - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” của tác giả Đinh Văn Quế - Thạc sỹ Luật học, Phó chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao, người đã nhiều năm nghiên cứu, giảng dạy và cho công bố nhiều tác phẩm bình luận khoa học về Bộ luật hình sự và cũng là người trực tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Dựa vào các quy định của chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999, so sánh với các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, đối chiếu với thực tiễn xét xử các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tác giả đã giải thích một cách khoa học về các các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế quy định tại chương XVI Bộ luật hình sự, đồng thời tác giả cũng nêu ra một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự ở nước ta. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. MỞ ĐẦU Đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra từ Đại hội VI đến nay từng bước trở thành hiện thực. Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu đã được xác lập là điều kiện để từng bước xoá bỏ nền kinh tế tập trung, bao cấp không còn phù hợp nữa. Các quan hệ kinh tế và quản lý kinh tế thay đổi. Muốn cho nền kinh tế phát triển, thì điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là đường lối đúng đắn của Đảng phải được thể chế hoá bằng pháp luật. Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X cùng với việc sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến việc đổi mới quản lý kinh tế đã có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cũng không còn phù hợp, đòi hỏi phải thay đổi mới thúc đẩy kinh tế phát triển. Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời là một yêu cầu cấp thiết, đáp ứng yêu cầu trên. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được quy định tại chương VII Bộ luật hình sự năm 1985 với tên chương là “các tội phạm về kinh tế”. Chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999 không gọi là “các tội phạm về kinh tế” mà gọi là “các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế”. Việc thay đổi tên chương, không chỉ đơn thuần về tên gọi, mà có ý nghĩa rất quan trọng về nội dung và bản chất của các tội phạm trong chương này. Về phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Bộ luật hình sự đối với hành vi phạm tội cũng có nhiều thay đổi. Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong chương này, còn các hành vi xâm phạm khác thuộc về lĩnh vực kinh tế tuỳ từng trường hợp mà quy định tại chương các tội phạm xâm phạm sở hữu hay các tội phạm về chức vụ, các tội phạm về môi Do tính chất và đặc điểm của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế luôn luôn bị chi phối bởi những chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn dài ngắn khác nhau, có hành vi hôm trước là tội phạm nhưng hôm sau không còn là tội phạm nữa, thậm chí còn được coi là công trạng. Vì vậy, Bộ luật hình sự chỉ quy định những dấu hiệu đặc trưng của tội phạm còn hành vi cụ thể xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế nào, do ai quy định lại phải căn cứ vào các văn bản của Nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế mới xác định được. Việc xác định hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế không khó, nhưng cái khó là hành vi xâm phạm đó đã cấu thành tội phạm chưa ? Thực tiễn xét xử cho thấy việc xác định hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế khó hơn việc xác định các hành vi phạm tội khác. Mặt khác, có nhiều quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 đối với các tội phạm về kinh tế chưa được giải thích hướng dẫn hoặc tuy có được hướng dẫn nhưng các hướng dẫn đó đã lạc hậu không còn phù hợp. Ví dụ Khi hướng dẫn thế nào là hàng phạp pháp có số lượng lớn hoặc giá trị lớn quy định tại điểm b khoản 2 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với tội buôn lậu, tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29-11-1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn “coi là lớn, nếu số tiền khoảng từ đồng đến đồng, lương thực quy ra thóc khoảng 5 tấn...” Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn do tình hình giá cả thay đổi, hướng dẫn trên bị coi là lạc hậu ngay. Nay chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới, cũng với các quy định cũ chưa được giải thích hướng dẫn, nếu không tìm hiểu một cách cặn kẽ, sẽ khó có thể áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 vào thực tiễn đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Với ý nghĩa trên, qua nghiên cứu và qua thực tiễn xét xử, chúng tôi xin phân tích các dấu hiệu của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế quy định tại chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999. Hy vọng những ý kiến của chúng tôi sẽ giúp bạn đọc, nhất là các cán bộ làm công tác pháp lý tham khảo. PHẦN THỨ NHẤT MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được quy tại chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều điểm mới cụ thể là - Chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999 có 29 Điều quy định 30 tội danh, trong đó Điều 164 quy định hai tội danh trong cùng một điều luật, đó là “tội làm tem giả, vé giả; tội buôn bán tem giả, vé giả”, còn các điều luật khác mỗi điều luật quy định một tội danh. - Một số tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tại các chương khác nay do tình hình kinh tế xã hội nên nhà làm luật quy định trong Chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999 Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế như Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới; tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lưu hành tiền giả, trước đây quy định tại Điều 98 Chương I các tội xâm phạm an ninh quốc gia , nay quy tại Điều 180, Điều 181 Chương XVI. - Một số tội phạm trước đây quy định trong chương các tội phạm về kinh tế, nhưng nay nhà làm luật không quy định tại chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, mà quy định ở chương khác như tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng nay được quy định tại chương XVII các tội phạm về môi trường. - Một số hành vi theo Bộ luật hình sự năm 1985 là tội phạm về kinh tế, nay Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm nữa như Tội phá huỷ tiền tệ Điều 98; tội cản trở việc thực hiện các quy định của Nhà nước về cải tạo xã hội chủ nghĩa Điều 164; tội chiếm đoạt tem, phiếu; tội làm hoặc lưu hành tem, phiếu, giấy tờ giả dùng vào việc phân phối Điều 172; tội sản xuất hoặc buôn bán rượu, thuốc lá trái phép Điều 183 và tội lạm sát gia súc Điều 184. - Một số hành vi theo Bộ luật hình sự năm 1985 thì không phải là tội phạm này Bộ luật hình sự năm 1999 quy định là tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế như Tội quảng cáo gian dối Điều 168; tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp Điều 170; tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Điều 171; tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng Điều 178 và tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng Điều 179. - Một số hành vi phạm tội, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định một tội danh trong cùng một điều luật, nay Bộ luật hình sự năm 1999 tách ra thành hai hoặc nhiều tội danh khác nhau quy định ở nhiều điều luật khác nhau như Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, nay được cấu tạo thành ba tội danh khác nhau quy định ở ba điều luật khác nhau, đó là Tội sản xuất, buôn bán hàng giả Điều 156; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh Điều 157 và tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi Điều 158. Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1985 , nay được cấu tạo thành hai tội danh khác nhau quy định ở hai điều luật khác nhau, đó là Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai Điều 173 và tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai Điều 174. Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985 , nay được cấu tạo thành hai tội danh khác nhau quy định ở hai điều luật khác nhau, đó là Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng Điều 175 và tội vi phạm các quy định về quản lý rừng Điều 176. - Đối với từng tội phạm quy định trong các điều luật so với cùng tội phạm đó quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có nhiều điểm được sửa đổi bổ sung như Cấu tạo lại các khung hình phạt cho phù hợp với tình chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; tình tiết nào không phù hợp thì bỏ hoặc sửa đổi cho phù hợp; bổ sung các tình tiết mới là yếu tố định tội hoặc định khung hình - Các yếu tố định tội ở một số tội danh cũng được sửa đổi bổ sung theo hướng phi hình sự hoá một số hành vi hoặc quy định các tình tiết àm ranh giới để phân biệt hành vi phạm tội với hành vi chưa tới mức là tội phạm. Ví dụ Người có hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới trước đây quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 không giới hạn giá trị hàng pháp pháp có giá trị hoặc không giới hạn loại hàng hoá, nay Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158,159,160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này”. - Hình phạt bổ sung đối với từng tội phạm, nếu thấy là cần thiết được quy định ngay trong cùng một điều luật. PHẦN THỨ HAI CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ 1. TỘI BUÔN LẬU Điều 153. Tội buôn lậu 1. Người nào buôn bán trái phép qua biên giới thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm a Hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158,159,160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này; b Vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá; c Hàng cấm có số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158,159,160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm a Có tổ chức; b Có tính chất chuyên nghiệp; c Tái phạm nguy hiểm; d Vật phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; đ Hàng cấm có số lượng rất lớn; e Thu lợi bất chính lớn; g Lợi dụng chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác; h Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; i Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; k Phạm tội nhiều lần; l Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm a Vật phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng; b Hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn; c Thu lợi bất chính rất lớn; d Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình a Vật phạm pháp có giá trị từ một tỷ đồng trở lên; b Thu lợi bất chính đặc biệt lớn; c Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định Nghĩa Buôn lậu là buôn bán hàng hoá qua biên giới một cách trái phép. Tội buôn lậu là tội phạm được tách ra từ tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới được quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, là tội xâm phạm an ninh quốc gia. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 coi tội phạm này là tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc xuất nhập khẩu hàng hoá và những vật phẩm khác của Nhà nước. So với Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung lớn, cụ thể là - Nếu Điều 97 quy định buôn bán trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá không kể giá trị bao nhiêu cũng bị coi là tội phạm, thì Điều 153 quy định, nếu là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý thì phải có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng mới cấu thành tội phạm; nếu dưới một trăm triệu đồng thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội buôn lậu. Nếu là hàng cấm thì phải có số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội phạm. - Nếu Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa phân biệt hàng hoá với hàng cấm, thì Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nếu là hàng cấm thì không phải xác định giá trị mà chỉ cần xác định số lượng lớn, thì người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu có số lượng chưa được coi là lớn thì người có hành vi buôn lậu phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội buôn lậu. - Nếu Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định, thì Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hành vi buôn lậu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, thì mới là hành vi phạm tội buôn lậu. Quy định này cho phép chúng ta phân biệt với các hành vi buôn lậu nhưng hàng lậu là đối tượng phạm tội đã được quy định thành tội phạm riêng. Ví dụ buôn lậu ma tuý qua biên giới sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 193; nếu buôn lậu vũ khi quân dụng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 230; nếu buôn lậu chất cháy, chất độc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 238 Bộ luật hình - Nếu Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ba khoản tương ứng với ba khung hình phạt, thì Điều 153, ngoài khoản 5 quy định hình phạt bổ sung thì quy định bốn khoản tương ứng với bốn khung hình phạt. - Các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng được sửa đổi, bổ sung như Quy định giá trị vật phạm pháp bằng một số tiền cụ thể thay cho tình tiết vật phạm pháp có giá trị lớn, phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; bổ sung các tình tiết Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác; hàng phạm pháp có số lượng rất lớn, đặc biệt lớn; thu lợi bất chính rất lớn, đặc biệt lớn; gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt. - Do cấu tạo lại thành bốn khoản nên khung hình phạt ở mối khoản cũng được sửa đổi, bổ sung như Khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, thì khoản 1 Điều 153 là sáu tháng đến ba năm; khoản 2 Điều 97 có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm, thì khoản 2 Điều 153 là ba năm đến bảy năm; khoản 3 Điều 97 có khung hình phạt từ mười năm đến hai mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình, thì khoản 3 Điều 153 là bảy năm đến mười lăm năm; hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm tù, tù trung thân hoặc tử hình được quy định tại khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm này không có gì đặc biệt so với các tội phạm khác, chỉ cần người có năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật là có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người đủ 16 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 của điều luật, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự vè tội phạm này quy định tại khoản 1, khoản 2 của điều luật mà họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này theo khoản 3 và khoản 4 của điều luật, vì khoản 1 và khoản 2 của điều luật là tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, còn khoản 3 và khoản 4 của điều luật là tội phạm rất nghiêm trọng và đặt biệt nghiêm trọng. Nếu vật phạm pháp là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý dưới một trăm triệu đồng hoặc là hàng cấm nhưng số lượng chưa lớn, thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội buôn lậu. - Đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi buôn lậu, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính cũng về hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự bằng một trong các hình thức được quy định trong Pháp lệnh xử phạt hành chính do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dung mà chưa quá một năm. Nếu người phạm tội bị xử phạt hành chính về hành vi khác không phải là hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, thì người có hành vi buôn lậu cùng không chịu trách nhiệm hình sự. - Đã bị kết án về tội buôn lậu hoặc các tội quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi buôn lậu, người phạm tội đã bị Toà án kết án về tội buôn lậu hoặc một trong các tội quy định tại các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác không phải là tội buôn lậu hoặc một trong các tội quy định tại các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự hoặc đã được xoá án tích, thì người có hành vi buôn lậu cùng không chịu trách nhiệm hình sự. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Nếu trước đây, tội buôn lậu được nhà làm luật quy định tại chương “các tội xâm phạm an ninh quốc gia” thì khách thể của tội phạm này là an ninh kinh tế. Nay tội buôn lậu được nhà làm luật quy định tại chương “các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế”, thì khách thể của tội phạm này không còn là an ninh kinh tế nữa mà là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc xuất, nhập khẩu hàng hoá, tiền tệ, kim khí dá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử. Chính sách xuất, nhập khẩu của Nhà nước ta luôn thay đổi theo chính sách kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường, vì vậy việc xác định khách thể trực tiếp của tội buôn lậu có thể thay đổi tuỳ thuộc vào chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước. Ví dụ Việc nhập khẩu xe máy hai bánh đang được Nhà nước cho phép thì, nhưng do việc quản lý tại cửa khẩu lỏng lẻo nên Hải quan không thu được thuế nhập khẩu, nên Nhà nước ra chỉ thị cấm nhập khẩu xe máy hai bánh. Vậy là xe máy hai bánh trở thành hàng cấm nhập. Đối tượng tác động của tội buôn lậu là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá và hàng cấm. Khi xác định đối tượng tác động, nếu cần phải trưng cầu giám định của cơ quan chuyên môn thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định. Hàng hoá là vật phẩm được làm ra trong qua trình sản xuất, có giá trị và được đem trao đổi trong thị trường. Tiền Việt Nam là tiền, ngân phiếu, trái phiếu và các loại thẻ tín dụng hoặc giấy tờ khác có giá trị thanh toán do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành. Kim khí quý là các loại kim khí thuộc loại quý hiếm dạng tự nhiên hoặc các chế phẩm làm từ kim khi quý theo danh mục do Nhà nước Việt Nam ban hành như Vàng, bạc, bạch kim... Đá quý là các loại đá tự nhiên và các thành phẩm từ đá quí theo danh mục do Nhà nước Việt Nam ban hành như Kim cương, Rubi, Saphia, Emôrot và những đá quý tự nhiên khác có giá trị tương đương. Vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá là cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá do Nhà nước quy định. Theo quy định của Luật di sản văn hoá được Quốc hội thông qua ngày 29-6-2001 và Chủ tịch nước công bố ngày 12-7-20001, thì cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ một trăm năm trở lên. Tuy nhiên, Luật này không quy định thế nào là vật có giá trị lịch sử, văn hoá, mà chỉ quy định di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Căn cứ vào quy định này, ngoài danh lam thắng cảnh không là đối tượng của tội phạm này, thì di tích lịch sử - văn hoá, di vật, bảo vật quốc gia đều được coi là vật có giá trị lịch sử văn hoá. Theo quy dịnh của Luật về di sản thì, di tích lịch sử - văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch sử văn hoá, khoa học; di vật là vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử văn hoá, khoa học; bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hoá, khoa học. Cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá là vật được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định đó là cổ vật, là vật có giá trị lịch sử văn hoá. Nói chung trong những trường hợp này, các cơ quan tiến hành tố tụng cần trưng cầu giám định. Hàng cấm là hàng hoá mà Nhà nước cấm buôn bán trên lãnh thổ Việt Nam và cấm nhập, cấm xuất. Theo danh mục hàng hoá cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện Ban hành kèm theo Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 03-3-1999 của Chính phủ, thì hàng cấm là các mặt hàng sau đây - Các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng; - Các sản phẩm văn hoá phẩm đồi truỵ, mê tín dị đoan hoặc có hại tới giáo dục nhân cách; - Thuốc là điếu sản xuất tại nước ngoài; - Các loại pháo; - Các loại thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người và gia súc, thuốc bảo vệ thực vật và các trang thiết bị, dụng cụ y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam; - Thực động vật hoang dã thuộc danh mục Công ước quốc tế quy định mà Việt Nam tham gia ký kết và các loại động vật, thực vật quý hiếm khác cần được bảo vệ; - Một số đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Hiện nay, các loại hàng hoá mà Nhà nước cấm buôn bán, một số đã là đối tượng của các tội phạm khác như Ma tuý, vũ khí, thuốc độc, thuốc nổ... Số còn lại là đối tượng của tội phạm này không có nhiều chỉ còn một số mặt hàng như - Thuốc là điếu sản xuất tại nước ngoài; - Các loại pháo; - Các loại thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người và gia súc, thuốc bảo vệ thực vật và các trang thiết bị, dụng cụ y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam; - Thực động vật hoang dã thuộc danh mục Công ước quốc tế quy định mà Việt Nam tham gia ký kết và các loại động vật, thực vật quý hiếm khác cần được bảo vệ; - Một số đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nói chung, khi xác định có phải là hàng cấm hay không các cơ quan tiến hành tố tụng cần căn cứ vào các quy định của Nhà nước về hàng hoá cấm buôn bán, đối chiếu với Bộ luật hình sự xem loại hàng hoá đó đã là đối tượng của tội phạm nào chưa. Nếu hàng cấm đã là đối tượng của tội phạm khác rồi thì không còn là đối tượng của tội buôn lậu nữa. Trường hợp buôn bán trái phép qua biên giới động vật hoang dã thuộc danh mục Công ước quốc tế quy định mà Việt Nam tham gia ký kết và các loại động vật quý hiếm khác cần được bảo vệ ở trong nước, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu hay tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm Điều 190 Bộ luật hình sự năm 1999 ? Đây cũng là vấn đề cần có hướng dẫn thống nhất, vì trước đây, Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm mà chỉ quy định tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng Điều 195 Bộ luật hình sự năm 1985, nên hành vi buôn bán trái phép qua biên giới động vật hoang dã đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm thành một tội danh độc lập thì có coi hành vi buôn bán trái phép động vật hoang dã quý hiếm qua biên giới là hành vi buôn lậu nữa không ? Có ý kiến cho rằng, nếu buôn bán trái phép động vật hoang dã quý hiếm qua biên giới thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm theo Điều 190 Bộ luật hình sự năm 1999, vì đối tượng của tội phạm đã được quy định tại một tội danh khác. Có ý kiến lại cho rằng, nếu buôn bán trái phép động vật hoang dã quý hiếm qua biên giới thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu, còn nếu buôn bán trái phép động vật hoang dã quý hiếm trong nước thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm theo Điều 190 Bộ luật hình sự năm 1985, vì theo điều văn của Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này” chứ không quy định “nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 190 của Bộ luật này”. Chúng tôi thấy ý kiến này phù hợp hơn và có căn cứ pháp lý hơn. Do tình tình hình kinh tế xã hộ ở nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, nên các quy định của Nhà nước về hàng cấm luôn được sửa đổi, bổ sung. Vì vậy, khi xác định hàng cấm cần căn cứ vào các văn bản của Nhà nước của các ngành có liên quan về danh mục hàng cấm để làm căn cứ xác định người phạm tội có buôn bán hàng cấm qua biên giới không. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội buôn lậu chỉ có một hành vi khách quan là buôn bán trái phép, nhưng thủ đoạn lại rất đa dạng. Thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều trường hợp, nếu căn cứ vào hợp đồng mua bán giữa thì không có hành vi buôn lậu, nhưng xem xét một cách khách quan toàn diện thì hành vi buôn bán đó là hành vi buôn lậu. Ví dụ Trong vụ án Nguyễn Ngọc Lâm Anh Lâm, theo giấy phép nhập khẩu quota, thì Anh Lâm được nhập xe ôtô dạng khung gầm có gắn động cơ đã qua sử dụng; hợp đồng mua xe với Công ty nước ngoài cũng ghi bán và mua xe như trong giấy phép nhập khẩu, nhưng thực tế Anh Lâm mua xe nguyên chiếc, rồi tháo dời các linh kiện từ nước ngoài, chỉ để khung gầm và động cơ rồi vận chuyển từ nước ngoài về Việt Nam mở tờ khai hải quan đúng với giấy phép nhập khẩu và hợp đồng ngoại, còn các linh kiện khác của xe, Anh Lâm nhập về bằng con đường khác. Sau khi khung xe, và các linh kiện của xe được nhập về, Anh Lâm thuê các lắp ráp thành một chiếc xe hoàn chỉnh đem bán cho người tiêu dùng. Lại có trường hợp người phạm tội móc ngoặc với Hải quan cửa khẩu để nhập hàng không đúng với giấy phép. Ví dụ Trong vụ án Tân Trường Sanh, Trần Đàm và đồng bọn đã mua chuộc, hối lộ cả Phòng chống buôn lậu Hải quan thành phố Hồ Chí Minh và một số lãnh đạo Cục Hải quan các tỉnh Cần Thơ, Long An, Thừa Thiên Huế để nhập lậu hàng trăm Công tơ nơ hàng điện tử, nhưng lại mở tờ khai hải quan là máy nông cụ. Tinh vi hơn, có trường hợp lợi dụng sự quan lý yếu kém của Nhà nước và sự kém hiểu biết của cán bộ các ngành đã móc ngoặc ngay trong việc xin cấp giấy phép nhập hàng hoá, khi Hải quan phát hiện có hiện tượng không bình thường nhưng cũng không có cách nào quy kết được đó là buôn lậu hay không buôn lậu. Ví dụ Nguyễn Thị Mỹ Phượng mua lại các giấy phép của Bộ thương mại cấp cho các doanh nghiệp được nhập khẩu một lượng lớn xe máy đã qua dử dụng. Sau đó Mỹ Phượng cử người ra nước ngoài mua nhiều lô xe máy mới khác nhau, rồi yêu cầu chủ hàng phải làm cũ một vài chi tiết của xe như đồng hồ đo km/h đã chỉ 23, 30, 40..., làm bẩn sơn xe, làm móp ống bô, làm xướt sơn, làm hư một vài bóng đèn chiếu Khi kiểm hoá, cán bộ Hải quan Vũng Tàu thấy nghi là xe mới, và đề nghị thu thuế nhập khẩu như xe mới, nhưng đề nghị này không được chấp nhận vì cơ quan giám định lại kết luận lô xe nhập về là xe đã qua sử dụng, trong khi đó tất cả sô xe máy do Mỹ Phượng nhập về được tiêu thụ, cơ quan thuế đều thu thu thuế chước bạ như xe mới. Khi cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Bộ thương mại giải thích thế nào là xe đã qua sử dụng thì Bộ thương mại không trả lời, còn Tổng cục hải quan thì trả lời rằng Việc phân biệt giữa xe mới và xe đã qua sử dụng chưa có quy định của Nhà nước mà do cán bộ kiểm hoá căn cứ vào tình trạng thực tế của xe để xác định xe đó là xe mới hay là xe đã qua sử dụng. Cuối cùng thì hơn 9000 xe máy do Mỹ Phượng nhập lậu đã bị tách ra khỏi vụ án để điều tra, xử lý sau. Một thủ đoạn buôn lậu thường gặp và cũng khó phát hiện, đó là, việc nhập hàng hoá núp dưới hình thức tạm nhập, tái xuất. Nhưng khi hàng đã nhập về rồi thì không xuấn mà tiêu thụ ngay trong nước. Điển hình là vụ án Mai Văn Huy ở tỉnh Đồng Tháp đã làm tờ trình với Uỷ ban nhân dân tỉnh xin được tạm nhập, tái xuất hàng trăm tấn xăng dầu để xuất sang Căm Pu Chia, nhưng sau khi đã nhập được thì Mai Văn Huy đã tiêu thụ số xăng dầu này trong nước, gây thất thu thuế nhập khẩu cho Nhà nước hàng tỷ đồng. Khi Nhà nước có chủ trương không đánh thuế xuất nhập khẩu đối với một số hàng hoá thì người phạm tội lại nghĩ ngay đến thủ đoạn trộn lẫn hàng hoá có thuế xuất bằng 0 với hàng hoá khác để trốn thuế xuất nhập khẩu. Có thể nói, những thủ đoạn buôn lậu mà người phạm tội thực hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội cũng như các chính sách của Nhà nước đối với việc xuất nhập khẩu. Buôn bán trái phép là hành vi mua để bán lại kiếm lời. Hành vi buôn bán trong nhiều trường hợp đồng nghĩa với hành vi mua bán, nhưng không hoàn toàn chỉ là hành vi mua bán. Mua bán có thể mua để bán lại kiếm lời, nhưng có thể không nhằm mục đích kiếm lời, còn buôn bán thì nhất định phải có mục đích kiếm lời. b. Hậu quả Hậu quả của hành vi buôn lậu là những thiệt hại đến tính mạng, tài sản và những thiệt hại khác do hành vi buôn lậu gây ra. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, nếu hậu quả do hành vi buôn lậu gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt có mức cao hơn. Khi xác định hậu quả do hành vi buôn lậu gây ra cần chú ý rằng, giá trị hàng hoá và sô lượng hàng hoá quy định tại khoản 1 của điều luật như Hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng; hàng cấm có số lượng lớn thì không có nghĩa là đó là hậu quả của tội phạm, mà đó chỉ là vật phạm pháp. Thiệt hại trực tiếp do hành vi buôn lậu gây ra là Nhà nước không kiểm soát được hàng hoá xuất nhập khẩu, gây thất thoát thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu hàng hoá. c. Các dấu hiệu khách quan khác Ngoài hành vi khách quan, đối với tội buôn lậu, nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu băt buộc của cấu thành tội phạm như Giá trị hàng phạm pháp, số lượng hàng phạm pháp, địa điểm phạm tội. Nếu thiếu các dấu hiệu này thì dù một người có hành vi buôn bán trái phép hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, dá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá hoặc hàng cấm cũng không phải là hành vi buôn lậu. Nếu buôn bán trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý phải có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng, thì hành vi buôn bán trái phép mới cấu thành tội buôn lậu. Nếu buôn bán trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị dưới một trăm triệu đồng, thì người có hành vi phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, mới cấu thành tội phạm. Nếu buôn bán trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền tệ qua biên giới nhiều lần và mỗi lần tiền, hàng phạm pháp có giá trị dưới 100 triệu đồng nhưng tổng số các lần cộng lại có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên, thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu. Tuy nhiên, cần phân biệt nếu các lần buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới đó tuy chưa bị xử lý hành chính nhưng đã quá thời hiệu để xử lý hành chính thì không được cộng vào để xử lý hình sự. Nếu buôn bán trái phép qua biên giới hàng cấm có số lượng chưa lớn, thì người có hành vi phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, mới cấu thành tội phạm. Nhà làm luật quy định hàng cấm có số lượng lớn, nhưng lại chưa có giải thích thế nào là có số lượng lớn. Trước đây để áp dụng thông nhất pháp luật, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn cho các Toà án các cấp khi áp dụng các tình tiết “hàng phạm pháp có giá trị, hàng phạm pháp có số lượng lớn” trong một số trường hợp được quy ra bằng một số thóc, gạo; đối với một số hàng hoá khác lại được xác định trọng lượng như kilôgam, tạ, tấn...2 Tuy nhiên, việc các hướng dẫn này chỉ một thời gian ngắn đã bị lạc hậu do thị trường giá cả luôn luôn bị thay đổi, mặt khác xét về lý luận, đã đồng nhất hai hái niệm giá trị với số lượng. Đối với tội buôn lậu, cho đến nay lại chưa có hướng dẫn nào về tình tiết vật phạm pháp có số lượng lơn hoặc giá trị lớn. Để khắc phục tình trạng này, Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định cụ thể giá trị vật phạm pháp, nhưng chưa quy định được số lượng, vì vậy tình tiết “có số lượng lớn” đối với các tội phạm nói chung và đối với tội buôn lậu nói riêng vẫn là vấn đề còn nhiều vướng mắc. Vấn đề đặt ra là, hàng cấm có nhiều loại khác nhau, vậy có cần quy định một số lượng chung cho tất cả các loại hàng cấm hay mỗi loại hàng cấm quy định một số lượng riêng để làm căn cứ xác định hàng cấm có số lượng rất lớn ? Khi chúng tôi đặt vấn đề này ra, thì hầu hết bạn đọc nhất là các đồng nghiệp đều cho rằng, không nên quy định số lượng chung cho tất cả các loại hàng cấm, mà tuỳ từng loại hàng cấm mà ấn định một số lượng nhất định để làm căn cứ xác định hàng cấm có số lượng rất lớn. Quan điểm này, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi buôn lậu, hơn nữa khi nói đến số lượng là nói đến số đếm hoặc được xác định bằng một đơn vị đo lường. Mặt khác mỗi loại hàng cấm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, nếu quy định chung là không hợp lý. Nếu xác định một số lượng chung được gọi là lớn cho tất cả các loại hàng hoá Nhà nước cấm buôn bán thì không phù hợp và không phản ảnh đúng tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhưng nếu căn cứ vào từng loại hàng cấm để quy định một số lượng được coi là lớn thì việc giải thích phải thường xuyên thay đổi vì chính sách quản lý kinh tế nói chung và chính sách xuất nhập khẩu nói riêng của Nhà nước cũng thường thay đổi để phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Vì vậy, có ý kiến cho rằng, nhà làm luật chỉ cần quy định hàng cấm có giá trị bao nhiều là lớn mà không cần quy định có số lượng lớn, vì số lượng được đo bằng số đếm 5,10,15,20,25...100, và các đơn vị đo lường gam, kilôgam, tạ, tấn,.... Tuy nhiên, ý kiến này chỉ phù hợp với những loại hàng cấm có thể tính ra được bằng tiền, còn các loại hàng cấm không thể tính ra được bằng tiền, có loại giá trị vạt chất không đáng bao nhiêu nhưng giá trị về văn hoá lại rất lớn, nên không thể quy định giá trị bao nhiêu là lớn được. Hiện nay, chưa có hướng dẫn hàng cấm có số lượng lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn, nhưng qua thực tiễn xét xử, nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự về một số trường hợp tương tự, tham khảo các văn bản đã hướng dẫn hoặc sắp hướng dẫn, có thể căn cứ vào một trong cách tính như sau - Đối với hàng cấm là thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài, thì số lượng từ bao đến dưới bao là hàng cấm có số lượng lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng, thì từ 2 đến dưới 5 hiện vật là hàng cấm có số lượng lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì từ 20 đến dưới 100 sản phẩm là hàng cấm có số lượng lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các loại pháo, thì từ 30kg đến dưới 90kg là hàng cấm có số lượng lớn. Tuy nhiên, cách tính trên cũng chỉ là ước lệ có tính chất tương đối, vì chính sách kinh tế thường xuyên thay đổi, nên hàng cấm hay không cấm cũng thường xuyên thay đổi, nếu quy định cho từng loại hàng cấm một số lượng để làm căn cứ xác định hàng cấm có số lượng rất lớn, thì khi Nhà nước quy định cấm buôn bán một loại hàng nào đó, các cơ quan chức năng lại phải hướng dẫn bổ sung thường xuyên mà việc này thì đơn giản. Ai cũng biết Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực từ 1-7-2000, nhưng đến nay, các cơ quan chức năng mới hướng dẫn được một vài chương, nếu phải hướng dẫn thường thuyên chắc sẽ không đáp ứng được yêu cầu của của thực tiễn xét xử. Vì vậy, có ý kiến cho rằng, việc xác định hàng cấm có số lượng lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn theo một phương pháp sau - Nếu hàng cấm là hàng hoá có giá trị, thì căn cứ vào giá trị thực của nó để xác định một số lượng tương đương với một số tiền mà nếu đem bán hàng hoá cấm đó thu được. Ví dụ Hàng cấm là thuốc lá điếu của nước ngoài ba số năm 555, thì coi là có số lượng rất, nếu có từ bao đến dưới bao tương đương với từ đồng đến dưới đồng tính mỗi bao đồng. - Nếu là hàng cấm không thuộc loại có thể tính ra được bằng tiền thì có thể căn cứ vào giá trị mà người phạm tội đã mua hoặc giá trị thật nếu như đem bán loại hàng cấm đó để làm căn cứ xác định số lượng bao nhiêu là lớn. Ví dụ Một người buôn lậu một con Gấu, một con Khỉ mặt đỏ đều thuộc động vật quý hiếm. Người này khai mua con Gấu là đồng, con Khỉ mặt đỏ là đồng. Cơ quan điều tra xác minh đúng như lời người phạm tội khai. Trường hợp này, phải xác định là hàng cấm có số lượng lớn, mặc dù chỉ có hai con hai vật thể. Địa điểm phạm tội được xác định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội buôn lậu, đó là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới. Nếu buôn bán trái phép hàng hoá không qua biên giới thì hành vi không cấu thành tội buôn lậu mà tuỳ trường hợp hành vi đó cấu thành tội buôn bán hàng cấm, kinh doanh trái phép.. Biên giới là đường phân cách giữa quốc gia này với quốc gia khác. Biên giới bao gồm biên giới đường bộ, đường thuỷ, đường không. Tuy nhiên, việc xác định hành vi buôn bán trái phép đã qua biên giới chưa lại không phải cứ vào việc hàng hoá đã qua đường biên chưa, mà căn cứ vào địa điểm mà cơ quan kiểm soát hàng hoá qua biên giới như Hải quan sân bay, hải quan các cửa khẩu khác, có khi địa điểm đó nằm sâu trong lãnh thổ nhưng hành vi buôn lậu đó vẫn xảy ra. Vì vậy, khi xác định hành vi buôn bán trái phép hàng hoá đã qua biên giới hay chưa, không phải là căn cứ vào hàng hoá đó đa qua đường biên giới hay chưa, mà phải căn cứ vào hàng hoá đó đã thoát khỏi sự kiếm soát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc xuất nhập khẩu hàng hoá đó thường là cơ quan Hải quan. Đây là dấu hiệu thực tiễn xét xử thường có quan điểm đánh giá khác nhau khi phải xác định hành vi buôn bán trái phép hàng hoá có phải là hành vi buôn lậu hay không. Có ý kién cho rằng, chỉ coi là buôn lậu nếu hàng hoá được đưa qua biên giới giữa nước ta với các nước có đường biên giới chung với nước ta, còn nếu qua biên giới giữa hai nước khác không phải là Việt Nam thì không coi là buôn lậu. Ví dụ Nguyễn Hoài L cùng một số thuỷ thủ Tầu 1037 có nhiệm vụ vận chuyển hàng hoá từ Hàn Quốc vào Hồng Kông theo một hợp đồng vận chuyển đã ký giữa Việt Nam với Hàn Quốc. L đã mua một số hàng điện tử từ Hàn Quốc để đưa vào Hồng Kông bán kiếm lời, nhưng khi tầu cập cảng Hồng Kông, thì bị chính quyền Hông Kông phát hiện thu giữ hàng hoá và gửi công hàm cho cơ quan Ngoại giao nước ta để xử lý đối với L và một số thuỷ thủ đã có hành vi buôn lậu. L và các thủ thủ trên Tầu 1037 được đưa về Việt Nam. Khi thụ lý vụ án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có ý kién cho rằng, hành vi của L và các thủy thủ Tầu 1037 không phải là hành vi buôn lậu vì L buôn bán trái phép hàng hoá không qua biên giới Việt Nam. Mặt khác, hàng lậu đã bị Chính quyền Hồng Kông thu giữ nên không có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với L và các thủy thủ Tầu 1037 về tội buôn lậu. Có trường hợp người phạm tội chưa đưa hàng hoá qua biên giới, nhưng có căn cứ để xác định hàng hoá này sẽ được đưa qua biên giới, nếu như các cơ quan chức năng không phát hiện được. loại hành vi này cũng có ý kiến cho rằng, người có hành vi mua bán trái phép hàng hoá chưa cấu thành tội buôn lậu, vì hàng hoá của họ chưa qua biên giới. Do thủ đoạn của người phạm tội buôn lậu càng ngày càng tinh vi xảo quyệt nên hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới cũng rất đa dạng làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng khó xác định hàng hoá đó đã qua biên giới hay không ? Một dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội buôn lậu là hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, thì mới là hành vi buôn lậu. Nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điều luật trên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm quy định tại các điều luật đó mà không phải là tội buôn lậu. Dấu hiệu này cho thấy, tội buôn lậu cũng có các yếu tố cấu thành tội phạm tương tự như đối với các tội phạm quy định tại các điều luật trên, nhưng chỉ khác nhau ở đối tượng phạm tội. Nếu đối tượng vật phạm pháp đã được quy định là vật pham pháp của các tội quy định tại các điều luật trên thì không còn là hành vi buôn lậu nữa. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội buôn lậu với các tội phạm khác có dấu hiệu tương tự. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi buôn lậu là do cố ý cố ý trực tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới, thấy trước được hậu quả của của hành vi buôn bán trái phép qua biên giới và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Không có hành vi buôn lậu nào được thực hiện do cố ý gián tiếp. Mục đích của người phạm tội là thụ lợi. Biểu hiện của mục đích thu lợi là người phạm tội tìm cách trốn thuế xuất nhập khẩu. Vấn đề đặt ra là, mục đích của người phạm tội có phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này không ? Đây cũng là vấn đề mà thực tiễn xét xử còn nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, đặc trưng của tội buôn lậu không phải là buôn bán hàng hoá qua biên giới, mà là trốn thuế xuất, nhập khẩu trốn thuế do Hải quan thu. Hành buôn bán trái phép xảy ra bất cứ ở đâu, nếu có trốn thuế xuất, nhập khẩu đều là buôn lậu. Quan điểm này, mới nghe có vẻ rất hợp lý vì nó loại bỏ những rắc rối về một số trường hợp phải xác định thế nào là qua biên giới, làm cho việc xác định hành vi buôn lậu đơn giản hơn, nhưng lại không lý giải được những trường hợp không trốn thuế xuất, nhập khẩu hoặc hàng phạm pháp là hàng cấm không có thuế xuất hoặc thuế nhập nhưng vẫn là buôn lậu. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội buôn lậu không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội buôn lậu, người phạm tội có thể bị phạt phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. So với tội buôn lậu quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định hình phạt tiền và hình phạt tù cũng nhẹ hơn khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985. Mặt khác, khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội như Vật phạm pháp là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý dưới một trăm triệu đồng hoặc là hàng cấm nhưng số lượng chưa lớn, thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội buôn lậu. Đây là ranh giới giữa hành vi phạm tội với hành vi vi phạm hành chính. Khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54.4 Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc áp dụng hình phạt tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tù dưới sáu tháng tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến ba năm tù. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì - Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật; - Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ; - Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng; - Hàng phạm pháp, vật phạm pháp càng lớn, càng nhiều, người phạm tội phải bị phạt nặng hơn người phạm tội buôn lậu có hàng phạm pháp, vật phạm pháp không lớn, không nhiều 5 2. Buôn lậu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, buôn lậu có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án buôn lậu có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình Trong những năm gần đây, buôn lậu có tổ chức với quy lớn thường được tổ chức rất chặt chẽ và kèm theo hành vi đưa và nhận hối lộ. Người phạm tội buôn lậu dùng thủ đoạn đưa hối lộ cho cán bộ Hải quan và những người có chức, có quyền với mục đích để họ làm ngơ, để được bao che cho hành vi buôn lậu của mình. Các vụ án buôn lậu lớn như vụ Tân Trường Sanh, vụ Nguyễn Ngọc Lâm, vụ Nguyễn Thị Mỹ Phượng...phản ảnh rất rõ đặc điểm này của buôn lậu có tổ chức. Trong vụ Tân Trường Sanh, Trần Đàm cùng với vợ và các con đã tổ chức một mạng lưới để thực hiện hành vi buôn lậu, từ việc xin, mua các giấy phép nhập khẩu, đến việc tổ chức cho người ra nước ngoài mua hàng hoá để chuyển về Việt Nam, đồng thời Trần Đàm tổ chức cho người mua chuộc cán bộ Hải quan một số tỉnh, thành phố mà Trần Đàm nhập hàng lậu, đặc biệt là Phòng chống buôn lậu Hải quan thành phố Hồ Chí Minh do Phùng Long Thất làm trưởng phòng. Do có sợ tổ chức chặt chẽ, nên hành vi buôn lậu của Trần Đàm và đồng bọn kéo dài từ năm 1991 đến năm 1997 mới bị phát hiện. Nếu so sánh với các vụ buôn lạu có tổ chức khác thì hành vi buôn lậu có tổ chức của Trần Đàm, Mỹ Phượng, Anh Lâm là những vụ buôn lậu có tổ chức với quy mô lớn nhất. b. Có tính chất chuyên nghiệp Buôn lậu có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm tội chủ yếu lấy việc buôn lậu là nguồn sống chính của bản thân và gia đình mình, nếu người phạm tội lấy việc phạm tội là nguồn sống chính, nhưng mới phạm tội buôn lậu một lần dù với quy mô như thế nào thì cũng không thuộc trường hợp buôn lậu có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự. Ngoài đặc điểm lấy việc buôn lậu là nguồn sống chính, thì buôn lậu có tổ chức còn có đặc điểm người phạm tội thực hiện hành vi buôn lậu nhiều lần, hành vi được lặp đi lặp lại. c. Tái phạm nguy hiểm Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự và bất kỳ trường hợp tái phạm nguy hiểm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, phạm tội buôn lậu trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi - Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội buôn lậu thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự, nếu chỉ phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự thì chưa thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm vì khoản 1, khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, nếu người phạm tội buôn thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm này thì đòng thời đã thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 của Điều 153 nên việc xác định tình tiết tái phạm nguy hiểm chỉ có ý nghĩa là tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự. - Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội buôn lậu không phân biệt phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của Điều 153 Bộ luật hình sự. d. Vật phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng Trường hợp phạm tội này xác định không khó, chỉ cần căn cứ vào giá trị hàng phạm pháp mà người phạm tội buôn bán trái phép qua biên giới. Nếu hàng phạm pháp có giá trị từ ba răm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng là hành vi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi xác định giá trị hàng phạm pháp các cơ quan tiến hành tố tụng cần căn cứ vào giá trị thật của hàng phạm pháp. Giá trị thật của hàng phạm pháp là theo giá trị thị trường ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm, bởi lẽ trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiện hành vi. Nếu hàng phạm pháp là những hàng hoá không phải hàng cấm, nhưng chưa được lưu thông trên thị trường hoặc hàng hoá khó xác định giá trị thật thì phải trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định, cần yêu cầu cụ thể giá trị hàng hoá đó là bao nhiêu vào thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội và ở địa bàn xảy ra tội phạm, chứ không phải vào thời điểm giám định và tại địa điểm khác. Đây là vấn đề tuy không khó nhưng thực tiễn xét xử, không ít trường hợp do yêu cầu không cụ thể nên cơ quan định giá chỉ xác định giá trị tài sản vào thời điểm giám định hoặc theo giá chung của Nhà nước dẫn đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không chính xác. Trường hợp hàng phạm pháp vừa là hàng hoá được lưu thông vừa là vật phẩm thuộc di tích lịch sử vừa là hàng cấm thì vấn đề xác định giá trị hàng phạm pháp như thế nào, vì hàng phạm pháp bao gồm cả ba loại trên ? Đây là vấn đề phức tạp và do Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 được cấu tạo lại nên thực tiễn xét xử các vụ án buôn lậu trong những năm qua chưa có vướng mắc, nên cũng chưa có giải thích hoặc hướng dẫn cụ thể. Do đó, có nhiều ý kiến khác nhau ý kiến thứ nhất cho rằng, phạm vi áp dụng điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự chỉ đối với hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý và vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá, chứ không bao gồm hàng cấm, vì hàng cấm đã được quy định riêng tại điểm đ khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự. ý kiến thứ hai cho rằng, phạm vi áp dụng điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự chỉ đối với hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, chứ không bao gồm vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá, vì trong thực tế nhiều vụ án buôn lậu, người phạm tội đã buôn bán trái phép vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá, nhưng lại buôn bán nhầm phải bản sao, còn bản chính bản gốc vẫn chưa bị đem trao đổi hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá đó không xác định được bằng tiền. ý kiến thứ ba lại cho rằng, nếu khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự quy định vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá không cần số lượng nhiều hay ít đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự phải quy định tình tiết “vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá có só lượng lớn, rất lớn và đặc biệt lớn” là yếu tố định khung hình phạt tương tự như tình tiết “hàng cấm có số lượng rất lớn và đặc biệt lớn”. Do đó, hàng phạm pháp có giá trị từ ba răm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng là bao gồm cả vật phẩm thuộc thuộc di tích lịch sử, văn hoá, nếu vật phẩm đó tính ra được bằng tiền. Các ý kiến trên đều có nhân tố hợp lý, vì do Điều 153 Bộ luật hình sự được cấu tạo lại, nhưng nhà làm luật chưa dự liệu hết các trường hợp thực tiễn đặt ra, nên có thể còn những điểm chưa phù hợp. Hy vọng rằng, khi có dịp sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự nhà làm luật quan tâm đến sự bất hợp lý này. đ. Hàng cấm có số lượng rất lớn Cũng như đối với trường hợp hàng cấm có số lượng lớn, việc xác định hàng cấm có số lượng rất lớn là vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau. Nếu căn cứ vào cách tính thứ nhất thì hàng cấm có số lượng rất lớn nếu - Đối với hàng cấm là thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài, thì số lượng từ bao đến dưới bao là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng, thì từ 5 đến dưới 10 hiện vật là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì từ100 đến dưới 500 sản phẩm là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các loại pháo, thì từ 90kg đến dưới 300kg là hàng cấm có số lượng rất lớn. Nếu theo cách tính thứ hai thì được coi là hàng cấm có số lượng rất lớn - Nếu hàng cấm là hàng hoá có giá trị, thì căn cứ vào giá trị thực của nó để xác định một số lượng tương đương với một số tiền mà nếu đem bán hàng hoá cấm đó thu được. Ví dụ Hàng cấm là thuốc lá điếu của nước ngoài ba số năm 555, thì coi là có số lượng rất lớn, nếu có từ bao đến dưới bao tương đương với từ đồng đến dưới đồng tính mỗi bao đồng. - Nếu là hàng cấm không thuộc loại có thể tính ra được bằng tiền thì có thể căn cứ vào giá trị mà người phạm tội đã mua hoặc giá trị thật nếu như đem bán loại hàng cấm đó để làm căn cứ xác định số lượng bao nhiêu là lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn. Ví dụ Một người buôn lậu một con gấu, một con hổ mặt đều thuộc động vật quý hiếm. Người này khai mua con gấu là đồng, con hổ là đồng. Cơ quan điều tra xác minh đúng như lời người phạm tội khai. Trường hợp này, phải xác định là hàng cấm có số lượng rất lớn, mặc dù chỉ có hai con hai vật thể. e. Thu lợi bất chính lớn Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội buôn lậu, người phạm tội có thể bị phạt phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. So với tội buôn lậu quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định hình phạt tiền và hình phạt tù cũng nhẹ hơn khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985. Mặt khác, khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội như Vật phạm pháp là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý dưới một trăm triệu đồng hoặc là hàng cấm nhưng số lượng chưa lớn, thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội buôn lậu. Đây là ranh giới giữa hành vi phạm tội với hành vi vi phạm hành chính. Khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54.4 Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc áp dụng hình phạt tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tù dưới sáu tháng tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến ba năm tù. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì - Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật; - Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ; - Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng; - Hàng phạm pháp, vật phạm pháp càng lớn, càng nhiều, người phạm tội phải bị phạt nặng hơn người phạm tội buôn lậu có hàng phạm pháp, vật phạm pháp không lớn, không nhiều 5 2. Buôn lậu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, buôn lậu có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án buôn lậu có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình Trong những năm gần đây, buôn lậu có tổ chức với quy lớn thường được tổ chức rất chặt chẽ và kèm theo hành vi đưa và nhận hối lộ. Người phạm tội buôn lậu dùng thủ đoạn đưa hối lộ cho cán bộ Hải quan và những người có chức, có quyền với mục đích để họ làm ngơ, để được bao che cho hành vi buôn lậu của mình. Các vụ án buôn lậu lớn như vụ Tân Trường Sanh, vụ Nguyễn Ngọc Lâm, vụ Nguyễn Thị Mỹ Phượng...phản ảnh rất rõ đặc điểm này của buôn lậu có tổ chức. Trong vụ Tân Trường Sanh, Trần Đàm cùng với vợ và các con đã tổ chức một mạng lưới để thực hiện hành vi buôn lậu, từ việc xin, mua các giấy phép nhập khẩu, đến việc tổ chức cho người ra nước ngoài mua hàng hoá để chuyển về Việt Nam, đồng thời Trần Đàm tổ chức cho người mua chuộc cán bộ Hải quan một số tỉnh, thành phố mà Trần Đàm nhập hàng lậu, đặc biệt là Phòng chống buôn lậu Hải quan thành phố Hồ Chí Minh do Phùng Long Thất làm trưởng phòng. Do có sợ tổ chức chặt chẽ, nên hành vi buôn lậu của Trần Đàm và đồng bọn kéo dài từ năm 1991 đến năm 1997 mới bị phát hiện. Nếu so sánh với các vụ buôn lạu có tổ chức khác thì hành vi buôn lậu có tổ chức của Trần Đàm, Mỹ Phượng, Anh Lâm là những vụ buôn lậu có tổ chức với quy mô lớn nhất. b. Có tính chất chuyên nghiệp Buôn lậu có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm tội chủ yếu lấy việc buôn lậu là nguồn sống chính của bản thân và gia đình mình, nếu người phạm tội lấy việc phạm tội là nguồn sống chính, nhưng mới phạm tội buôn lậu một lần dù với quy mô như thế nào thì cũng không thuộc trường hợp buôn lậu có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự. Ngoài đặc điểm lấy việc buôn lậu là nguồn sống chính, thì buôn lậu có tổ chức còn có đặc điểm người phạm tội thực hiện hành vi buôn lậu nhiều lần, hành vi được lặp đi lặp lại. c. Tái phạm nguy hiểm Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự và bất kỳ trường hợp tái phạm nguy hiểm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, phạm tội buôn lậu trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi - Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội buôn lậu thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự, nếu chỉ phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự thì chưa thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm vì khoản 1, khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, nếu người phạm tội buôn thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm này thì đòng thời đã thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 của Điều 153 nên việc xác định tình tiết tái phạm nguy hiểm chỉ có ý nghĩa là tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự. - Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội buôn lậu không phân biệt phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của Điều 153 Bộ luật hình sự. d. Vật phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng Trường hợp phạm tội này xác định không khó, chỉ cần căn cứ vào giá trị hàng phạm pháp mà người phạm tội buôn bán trái phép qua biên giới. Nếu hàng phạm pháp có giá trị từ ba răm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng là hành vi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi xác định giá trị hàng phạm pháp các cơ quan tiến hành tố tụng cần căn cứ vào giá trị thật của hàng phạm pháp. Giá trị thật của hàng phạm pháp là theo giá trị thị trường ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm, bởi lẽ trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiện hành vi. Nếu hàng phạm pháp là những hàng hoá không phải hàng cấm, nhưng chưa được lưu thông trên thị trường hoặc hàng hoá khó xác định giá trị thật thì phải trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định, cần yêu cầu cụ thể giá trị hàng hoá đó là bao nhiêu vào thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội và ở địa bàn xảy ra tội phạm, chứ không phải vào thời điểm giám định và tại địa điểm khác. Đây là vấn đề tuy không khó nhưng thực tiễn xét xử, không ít trường hợp do yêu cầu không cụ thể nên cơ quan định giá chỉ xác định giá trị tài sản vào thời điểm giám định hoặc theo giá chung của Nhà nước dẫn đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không chính xác. Trường hợp hàng phạm pháp vừa là hàng hoá được lưu thông vừa là vật phẩm thuộc di tích lịch sử vừa là hàng cấm thì vấn đề xác định giá trị hàng phạm pháp như thế nào, vì hàng phạm pháp bao gồm cả ba loại trên ? Đây là vấn đề phức tạp và do Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 được cấu tạo lại nên thực tiễn xét xử các vụ án buôn lậu trong những năm qua chưa có vướng mắc, nên cũng chưa có giải thích hoặc hướng dẫn cụ thể. Do đó, có nhiều ý kiến khác nhau ý kiến thứ nhất cho rằng, phạm vi áp dụng điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự chỉ đối với hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý và vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá, chứ không bao gồm hàng cấm, vì hàng cấm đã được quy định riêng tại điểm đ khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự. ý kiến thứ hai cho rằng, phạm vi áp dụng điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự chỉ đối với hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, chứ không bao gồm vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá, vì trong thực tế nhiều vụ án buôn lậu, người phạm tội đã buôn bán trái phép vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá, nhưng lại buôn bán nhầm phải bản sao, còn bản chính bản gốc vẫn chưa bị đem trao đổi hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá đó không xác định được bằng tiền. ý kiến thứ ba lại cho rằng, nếu khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự quy định vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá không cần số lượng nhiều hay ít đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự phải quy định tình tiết “vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá có só lượng lớn, rất lớn và đặc biệt lớn” là yếu tố định khung hình phạt tương tự như tình tiết “hàng cấm có số lượng rất lớn và đặc biệt lớn”. Do đó, hàng phạm pháp có giá trị từ ba răm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng là bao gồm cả vật phẩm thuộc thuộc di tích lịch sử, văn hoá, nếu vật phẩm đó tính ra được bằng tiền. Các ý kiến trên đều có nhân tố hợp lý, vì do Điều 153 Bộ luật hình sự được cấu tạo lại, nhưng nhà làm luật chưa dự liệu hết các trường hợp thực tiễn đặt ra, nên có thể còn những điểm chưa phù hợp. Hy vọng rằng, khi có dịp sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự nhà làm luật quan tâm đến sự bất hợp lý này. đ. Hàng cấm có số lượng rất lớn Cũng như đối với trường hợp hàng cấm có số lượng lớn, việc xác định hàng cấm có số lượng rất lớn là vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau. Nếu căn cứ vào cách tính thứ nhất thì hàng cấm có số lượng rất lớn nếu - Đối với hàng cấm là thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài, thì số lượng từ bao đến dưới bao là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng, thì từ 5 đến dưới 10 hiện vật là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì từ100 đến dưới 500 sản phẩm là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các loại pháo, thì từ 90kg đến dưới 300kg là hàng cấm có số lượng rất lớn. Nếu theo cách tính thứ hai thì được coi là hàng cấm có số lượng rất lớn - Nếu hàng cấm là hàng hoá có giá trị, thì căn cứ vào giá trị thực của nó để xác định một số lượng tương đương với một số tiền mà nếu đem bán hàng hoá cấm đó thu được. Ví dụ Hàng cấm là thuốc lá điếu của nước ngoài ba số năm 555, thì coi là có số lượng rất lớn, nếu có từ bao đến dưới bao tương đương với từ đồng đến dưới đồng tính mỗi bao đồng. - Nếu là hàng cấm không thuộc loại có thể tính ra được bằng tiền thì có thể căn cứ vào giá trị mà người phạm tội đã mua hoặc giá trị thật nếu như đem bán loại hàng cấm đó để làm căn cứ xác định số lượng bao nhiêu là lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn. Ví dụ Một người buôn lậu một con gấu, một con hổ mặt đều thuộc động vật quý hiếm. Người này khai mua con gấu là đồng, con hổ là đồng. Cơ quan điều tra xác minh đúng như lời người phạm tội khai. Trường hợp này, phải xác định là hàng cấm có số lượng rất lớn, mặc dù chỉ có hai con hai vật thể. e. Thu lợi bất chính lớn Thu lợi bất chính lớn là số tiền lời mà người phạm tội thu được do hành vi buon bán trái phép hàng hoá qua biên giới. Khi xác định tình tiết này, cần căn cứ vào tình tiết quy định tại điểm d của khoản này. Nếu vật phạm pháp có giá trị từ đồng đến dưới đồng, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự, thì khoản lợi bất chính thu được từ số hàng phạm pháp từ đồng đến dưới đồng chính là khoản thu lợi bất chính lớn. Tuy nhiên, không phải bao giờ cũng theo một công thức như vậy, vì có khi giá trị hàng phạm pháp chưa tới đồng nhưng người phạm tội cũng thu được khoản lời lớn hơn khoản lời do thu được từ việc bán lượng hàng có giá trị đồng, ngược lại có trường hợp người phạm tội buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới với giá trị cả tỷ đồng nhưng không thu được một đồng lợi nhuận nào. Vì vậy, việc xác định tình tình tiết Thu lợi bất chính lớn là số tiền lời mà người phạm tội thu được do hành vi buon bán trái phép hàng hoá qua biên giới. Khi xác định tình tiết này, cần căn cứ vào tình tiết quy định tại điểm d của khoản này. Nếu vật phạm pháp có giá trị từ đồng đến dưới đồng, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự, thì khoản lợi bất chính thu được từ số hàng phạm pháp từ đồng đến dưới đồng chính là khoản thu lợi bất chính lớn. Tuy nhiên, không phải bao giờ cũng theo một công thức như vậy, vì có khi giá trị hàng phạm pháp chưa tới đồng nhưng người phạm tội cũng thu được khoản lời lớn hơn khoản lời do thu được từ việc bán lượng hàng có giá trị đồng, ngược lại có trường hợp người phạm tội buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới với giá trị cả tỷ đồng nhưng không thu được một đồng lợi nhuận nào. Vì vậy, việc xác định tình tình tiết thu lợi bất chính lớn, không chỉ căn cứ vào giá trị hay số lượng hàng phạm pháp mà phải căn cứ vào số tiền lời thực tế mà người phạm tội thu được do buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới. Lợi dụng chiến tranh để buôn lậu Lợi dụng chiến tranh để phạm tội buôn lậu là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng hoàn cảnh có chiến tranh để thực hiện tội buôn lậu. Việc thực hiện tội phạm do lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh có thể được thuận lợi hơn, khó bị phát hiện hoặc có thể thu lợi bất chính lớn hơn lớn hơn. Người phạm tội phải thật sự lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh để phạm tội buôn lậu, thì mới thuộc trường hợp phạm tội này. Nếu họ phạm tội trong lúc đang có chiến sự nhưng không có ý thức lợi dụng hoàn cảnh đó thì cũng không thuộc trường hợp này. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh để phạm tội không nhất thiết lúc phạm tội hoặc nơi phạm tội phải đang có chiến sự mà chỉ cần người phạm tội lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh để buôn lậu dù hành vi buôn lậu xảy ra ở đâu, lúc nào vẫn bị coi là tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hiện nay, đất nước ta không còn chiến tranh, nhưng không phải vì thế mà không còn có người lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh để phạm tội, bởi vì trên thế giới, ở nước này hoặc nước khác chiến tranh vẫn còn xảy ra và ở nơi đó lại có người Việt Nam định cư đã lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh của nước sở tại để mua vét hàng hoá đưa trái phép về Việt Nam bán thu lợi bất chính, thì người vẫn bị áp dụng tình tiết "lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh để phạm tội". Lợi dụng hoàn cảnh thiên tai để buôn lậu Lợi dụng hoàn cảnh thiên tai để phạm tội buôn lậu là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng thiên tai để thực hiện buohv buôn lậu. Thiên tai là nhưng tai hoạ do thiên nhiên gây ra, thiên tai bao giờ cũng gây ra nhưng khó khăn cho xã hội. Những khó khăn này phải đáng kể nếu không nói là đặc biệt, như bị bão lụt, bị động đất. Người phạm tội phải thực sự lợi dụng những khó khăn do thiên tai gây nên để phạm tội thì mới bị coi là tình tiết tăng nặng. Ví dụ Trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân lo khắc phục lũ lụt ở một số tỉnh miền Tây Nam Bộ, thì Đặng Văn T cùng đồng bọn lợi dụng tình hình lũ lụt này buôn bán trái phép một lượng rất thuốc lá điếu ba số năm của nước ngoài từ Cam Pu Chia vào Việt Nam. Lợi dụng dịch bệnh để buôn lậu Lợi dụng dịch bệnh để phạm tội buôn lậu là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng những khó khăn do dịch bệnh gây nên để thực hiện hành vi buôn lậu. Dịch bệnh là một bệnh truyền nhiễm tràn lan, làm cho nhiều người, nhiều gia súc mắc phải, trong đó có thể có những bệnh nguy hiểm như HIV, dịch hạch, dịch tả nhưng cũng có những bệnh không nguy hiểm như dịch cúm, dịch sốt sét... Người phạm tội lợi dụng dịch bệnh để buôn lậu chủ yếu đối với các mặt hàng lien quan đến việc khắc phục dịch bệnh nhằm thu lợi bất chính cao hơn như thuốc chữa bệnh, các phương tiện, dụng cụ dùng cho việc khắc phục hậu quả của dịch bệnh. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người phạm tội không lợi dụng dịch bệnh để buôn lậu những hàng hoá phục vụ cho việc khắc phục hậu quả của dich bệnh để kiếm lợi nhuận cao mà chỉ lợi dụng dịch bệnh để dễ dàng thực hiện hành vi buôn lậu trót lọt. Ví dụ Nguyễn Chiến Th cùng đồng bọn đã mua một số hàng điện tử ở Trung Quốc và thuê người vận chuyển đến biên giới, nhưng do việc tuần tra canh gác tích của các lực lượng chống buôn lậu cùng biên, nên Th không thể chuyển hàng lậu về Việt Nam được. Khi được biết vùng biên giới đang có dịch tả, việc tuần ra canh gác có phần bị lơi lỏng vì Đảng bộ và Chính quyền địa phương tập trung lo khắc phục dịch tả, Th đã lợi dụng hoàn cảnh này chuyển hàng lậu về Việt Nam. Lợi dụng hoàn cảnh khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội Ngoài khó khăn thiên tai, địch hoạ, dịch bệnh gây nên, còn có những khó khăn đặc biệt khác. Những khó khăn này, có thể xáy ra ở từng nơi, vào từng lúc. Có thể xảy ra ở một địa bàn rộng, nhưng cũng có thể xảy ra ở một làng, một xã, một cơ quan, xí nghiệp trường học Khó khăn đặc biệt, thể hiện ở mức độ và phạm vi gây thiệt hại đến người và tài sản. Việc khắc phục đòi hỏi phải tập trung sức người, sức của và phải kịp thời, cấp bách như tai nạn máy bay, tàu biển, tàu hoả gây chết nhiều người, hư hại nhiều tài sản, những khó khăn đặc biệt do công tác quản lý Nhà nước, quản lý xã hội gây nên mà nhà làm luật chưa dự tính được. Ngươì phạm tội buôn lậu đã lợi dụng những khó khăn đặc biệt đó của xã hội để thực hiện hành vi buôn lậu. h. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn Trường hợp phạm tội này là người buôn lậu đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi buôn lậu. Trong tình hình kinh tế của nước ta hiện nay tì hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để buôn lậu xảy ra khá phổ biến, nhất là các đơn vị kinh tế quốc doanh, do làm ăn thua lỗ hoặc tuy không thua lỗ nhưng để tăng lợi nhuận đã cấu kết với người ngoài để buôn lậu. Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để buôn lậu được coi là nguy hiểm hơn vì khó bị phát hiện và làm giảm lòng tin của nhân dân vào chế độ, làm cho một bộ phận cán bộ, công chức bị tha hoá. Nói chung, người có chức vụ thì đi liền với chức vụ đó là quyền hạn nhất định, nên nếu lợi dụng chức vụ thì đồng thời họ cũng lợi quyền hạn. Tuy nhiên, có trường hợp người phạm tội chỉ lợi dụng chức vụ mà không lợi dụng quyền hạn hoặc người không có chức vụ chỉ có quyền hạn, nhưng họ đã lợi dụng quyền hạn được giao đẻ thực hiện hành vi buôn lậu. Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Nếu những người này, lợi dụng chức vụ để buôn lậu thì mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội. Nếu có chức vụ, nhưng lại không lợi dụng chức vụ để buôn lậu thì không gọi là lợi dụng chức vụ. Ví dụ Nguyễn Hoàng T là cán bộ hải quan sân bay, đã góp tiền với một số đối tượng để buôn bán trái phép thuốc lá điếu của nước ngoài, nhưng hàng lậu bị bắt lai ở Trạm kiểm soát liên ngành thuộc tỉnh An Giang; việc T góp tiền để buôn lậu cũng như những người dân bình thường khác, nên không coi hành vi của T là hành vi lợi dụng chức vụ đê buôn lậu. Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông thường là người có chức vụ, nhưng cũng có thể là người không có chức vụ nhưng được giao hoặc được thạm gia thực hiện một công vụ. Ví dụ B là Chủ tầu có trọng tải 50 tấn được Công ty vận tải thuê chở hàng của Công ty từ Việt Nam sang Malaysia với tư cách là người của Công ty. Lợi dụng quyền hạn được giao, B đã mua thêm hàng rồi xếp lẫn với hàng của Công ty nhằm trốn tránh việc kiểm tra của cơ quan chức năng. i. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là người phạm tội thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để buôn lậu. Thông thường, người phạm tội trường hợp này là thông qua các hợp đồng kinh tế để buôn lậu. So với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì hành vi lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước để buôn lậu nguy hiểm hơn, vì khi bắt được hàng lậu, xã hội nhân dân cho rằng, cơ quan, tổ chức đi buôn lậu, làm giám lòng tin của nhân dân vào chế độ. Điển hình cho hành vi lợi dụng dành nghĩa cơ quan, tổ chức để buôn lậu là vụ buôn lậu ở tỉnh Long An, vụ buôn lậu xăng dầu ở tỉnh Đồng Tháp do Mai Văn Huy cầm đầu. k. Phạm tội nhiều lần Cũng như các trường hợp phạm tội nhiều lần khác, buôn lậu nhiều lần là có từ hai lần buôn lậu trở lên và mỗi lần buôn lậu đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. l. Gây hậu quả nghiêm trọng Hậu quả nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra - Làm chết một người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. - Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa. 8 Tuy nhiên, hướng dẫn trên là hướng dẫn đối với các tội xâm phạm sở hữu, nhưng đối với tội buôn lậu là tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nên trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đối với tội buôn lậu, có thể áp dụng Thông tư liên tịch trên để xác định trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đối với tội phạm này. Về Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999. Nếu thời gian sắp tới Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an và Bộ Tư pháp ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng các quy định tại chương “các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” mà tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng không giống như quy định tại thông tư số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001, thì cũng không có gì là lạ và chúng ta sẽ căn cứ vào các hướng dẫn đó để xác định trường hợp tham ô gây hậu quả nghiêm Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ ba năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. So với tội buôn lậu quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt, thì khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định theo hướng không có lợi cho người phạm tội như Quy định thêm một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt mà khoản 2 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Vì vậy, đối với người phạm tội buôn lậu trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm đ, g và l trừ tình tiết lợi dụng chiến tranh, thì không áp dụng khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 mà áp dụng khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới 3 năm tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 3. Buôn lậu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự a. Vật phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 của điều luật, chỉ khác nhau ở chỗ giá trị vật phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng. Khi xác định giá trị vật phạm pháp, cũng phải căn cứ vào giá trị thật của hàng phạm pháp. Giá trị thật của hàng phạm pháp là theo giá trị thị trường ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm, bởi lẽ trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiện hành vi. Nếu hàng phạm pháp là những hàng hoá không phải hàng cấm, nhưng chưa được lưu thông trên thị trường hoặc hàng hoá khó xác định giá trị thật thì phải trưng cầu giám định. b. Hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật, chỉ khác nhau ở chỗ Hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn. Cũng như trường hợp quy định tại điểm đ, tuy chưa có hướng dẫn hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào hai cách tính như đã giới thiệu, nếu theo cách tính thứ nhất thì hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn nếu - Đối với hàng cấm là thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài, thì số lượng từ bao trở lên là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng, thì từ 10 hiện vật trở lên là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì từ 500 sản phẩm trở lên là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các loại pháo, thì từ 300kg trở lên là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn. Nếu theo cách tính thứ hai thì được coi là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn, nếu hàng cấm là hàng hoá có giá trị, thì căn cứ vào giá trị thực của nó để xác định một số lượng tương đương với một số tiền mà nếu đem bán hàng hoá cấm đó thu được từ đồng trở lên được coi là hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn c. Thu lợi bất chính rất lớn Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ lợi nhuận do hành vi buôn lậu mà người phạm tội thu được là rất lớn. Cũng như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 điều luật, Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính rất lớn nếu người phạm tội buôn lậu thu lợi bất chính từ đồng đến dưới đồng. Tương tự như trường hợp phạm tội trộm cắp, lừa đảo, lạm dung tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định mức tiền chiếm đoạt là yếu tố định khung hình phạt hình phạt theo khoản 3 của điều luật có mức cao nhất của khung hình phạt là mười lăm năm tù. d. Gây hậu quả rất nghiêm trọng. Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm l khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi buôn lạu gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra là những thiệt hại rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra Làm chết hai người; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. nên đối với người phạm tội từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. So với tội buôn lậu quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt, thì khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định theo hướng không có lợi cho người phạm tội như Quy định thêm một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt mà khoản 3 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Vì vậy, đối với người phạm tội buôn lậu trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm b, c và d, thì không áp dụng khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định một trường hợp phạm tội duy nhất là “phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” và khung hình phạt từ mười năm đến hai mươi năm. tù chung thân hoặc tử hình, trong khi đó khoản 3 Điều 153 lại có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. Có thể nói, khoản 3 của Điều 153 là quy định mới, nên không áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới 7 năm tù, nhưng không được dưới ba năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự . Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù. 4. Buôn lậu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự a. Vật phạm pháp có giá trị từ một tỷ đồng trở lên Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 và điểm a khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ Vật phạm pháp có giá trị từ một tỷ đồng trở lên. Cũng như các trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 và điểm a khoản 3 của điều luật, khi xác định giá trị vật phạm pháp, cũng phải căn cứ vào giá trị thật của hàng phạm pháp. Giá trị thật của hàng phạm pháp là theo giá trị thị trường ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm, bởi lẽ trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiện hành vi. Nếu hàng phạm pháp là những hàng hoá không phải hàng cấm, nhưng chưa được lưu thông trên thị trường hoặc hàng hoá khó xác định giá trị thật thì phải trưng cầu giám định. b. Thu lợi bất chính đặc biệt lớn Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 và điểm c khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ lợi nhuận do hành vi buôn lậu mà người phạm tội thu được là đặc biệt lớn. Cũng như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 và khoản 3 điều luật, Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính đặc biệt lớn nếu người phạm tội buôn lậu thu lợi bất chính từ đồng trở lên. Tương tự như trường hợp phạm tội trộm cắp, lừa đảo, lạm dung tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định mức tiền chiếm đoạt là yếu tố định khung hình phạt hình phạt theo khoản 4 của điều luật có mức cao nhất của khung hình phạt là chung thân hoặc tử hình. c. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm l khoản 2 và điểm d khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ Hậu quả do hành vi buôn lạu gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự đối chiếu với hướng dẫn về các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, thì có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra Làm chết ba người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng; Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng; Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. nên đối với người phạm tội từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nên đối với người phạm tội từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. So với tội buôn lậu quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định mới, vì Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có ba khung hình phạt. Tuy nhiên, căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 tương đương với khoản 3 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, tuy mức thấp nhất của khung hình phạt là mười hai năm, có cao hơn mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985. Vì vậy, đối với người phạm tội buôn lậu thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì chỉ áp dụng khoản 3 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới 12 năm tù, nhưng không được dưới 7 năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 4 là khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt tử hình. Thực tiễn xét xử Toà án cũng đã phạt tử hình một vài người phạm tội buôn lậu như Trần Đàm, Nguyễn Thị Mỹ Phượng. Tuy nhiên, việc áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội buôn lậu chỉ là cá biệt, mặc dù người phạm tội buôn lậu thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, giá trị hàng phạm pháp hàng trăm tỷ đồng nhưng cũng chỉ bị phạt tù chung thân, như vụ Nguyễn Ngọc Lâm ở thành phố Hồ Chí Minh, vụ Mai Văn Huy ở Đồng Tháp và nhiều vụ án khác. Cũng chính vì thế, có ý kiến cho rằng đối với các tội phạm về kinh tế nên bỏ hình phạt tử hình. Khi hướng dẫn áp dụng một số quy định về hình phạt tử hình đối với một số tội, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cũng không hướng dẫn đối với tội buôn lậu, trường hợp nào thì bị phạt tử hình, trường hợp nào phạt tù chung thân, còn trường hợp nào phạt từ 12 năm đến 20 năm Đây cũng là một vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, có nên bỏ hình phạt tử hình đối với người phạm tội buôn lậu hay không còn phải căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội của đất nước, vào tình hình quản lý của Nhà nước về việc xuất, nhập khẩu và vào kết quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Khi Quốc hội chưa sửa đổi, bổ sung Điều 153 Bộ luật hình sự thì cũng tức là Nhà nước thấy hình phạt tử hình đối với người phạm tội buôn lậu vẫn cần thiết. 5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội buôn lậu Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với tội buôn lậu quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội buôn lậu quy định tại Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi bổ sung như sau Nếu Điều 100 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “ có thể bị tước một số quyền công dân từ một năm đén năm năm”, thì khoản 5 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội buôn lậu trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 5 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999. Nếu Điều 100 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “thì bị phạt tiền đến mười lần giá trị hàng phạm pháp”, thì khoản 5 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội buôn lậu trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 5 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng không được quá 10 lần giá trị hàng phạm pháp. Riêng hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản Điều 100 Bộ luật hình sự năm 1985 và khoản 5 Điều 153 không có gì thay đổi. 2. TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HOÁ, TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI Điều 154. Tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới 1. Người nào vận chuyển trái phép qua biên giới thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm a Hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này; b Vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá, đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm; c Hàng cấm có số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm a Vật phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b Hàng cấm có số lượng rất lớn; c Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ Phạm tội nhiều lần; e Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên hoặc hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định Nghĩa Vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới là hành vi chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới với bất cứ hình thức, và thủ đoạn nào. Cũng tương tự như tội buôn lậu, tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới sau đây gọi tắt là tội vận chuyển trái phép... là tội phạm được tách ra từ tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới được quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, là tội xâm phạm an ninh quốc gia. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 coi tội phạm này là tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc xuất nhập khẩu hàng hoá và những vật phẩm khác của Nhà nước. Tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới, trước đây được quy định cùng với tội buôn lậu trong cùng một điều luật Điều 97, với cùng một khung hình phạt. Thực tiễn xét xử đã cho thấy, hành vi vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới không nguy hiểm bằng hành vi buôn lậu, mặc dù có cùng một khung hình phạt nhưng các Toà án bao giờ cũng xét xử nhẹ hơn hành vi buôn lậu. Vì vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 tách hành vi vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới thành một tội phạm riêng là phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. So với Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung lớn, cụ thể là - Nếu Điều 97 quy định Vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá không kể giá trị bao nhiêu cũng bị coi là tội phạm, thì Điều 154 quy định, nếu là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý thì phải có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng mới cấu thành tội phạm; nếu dưới một trăm triệu đồng thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi vận chuyển trái phép hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 153, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội buôn lậu. Nếu là hàng cấm thì phải có số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi vận chuyển trái phép qua biên giới hoặc hành vi quy định tại một trong các điều 153, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội phạm. - Nếu vận chuyển trái phép qua biên giới vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá thì người có hành vi vận chuyển trái phép phải là người đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội phạm. Đây là quy định khác với tội buôn lậu. Đây cũng là quy định khác với hành vi buôn lậu quy định Điều 153 Bộ luật hình sự, vì hành vi vận chuyển trái phép... được coi là có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn hành vi buôn lậu. - Nếu Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa phân biệt hàng hoá với hàng cấm, thì Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định, nếu là hàng cấm thì không phải xác định giá trị, mà chỉ cần xác định số lượng lớn, thì người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây cũng là quy định khác với hành vi buôn lậu quy định Điều 153 Bộ luật hình sự, vì hành vi vận chuyển trái phép... được coi là có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn hành vi buôn lậu. - Nếu Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định, thì Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hành vi vận chuyển trái phép... không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, thì mới là hành vi phạm tội vận chuyển trái phép...theo Điều 154 Bộ luật hình sự. Quy định này cho phép chúng ta phân biệt với các hành vi vận chuyển trái phép... nhưng vật phạm pháp là đối tượng phạm tội đã được quy định thành tội phạm riêng. Ví dụ Nếu vận chuyển trái phép ma tuý qua biên giới sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 193; nếu vận chuyển vũ khí quân dụng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 230; nếu vận chuyển trái phép chất cháy, chất độc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 238 Bộ luật hình - Các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng được sửa đổi, bổ sung như Quy định giá trị vật phạm pháp bằng một số tiền cụ thể thay cho tình tiết vật phạm pháp có giá trị lớn, phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; bổ sung các tình tiết Hàng cấm có số lượng rất lớn, đặc biệt lớn là yếu tố định khung hình phạt. - Tuy vẫn được cấu tạo ba khung hình phạt nhưng so với Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 các khung hình phạt quy định trong từng khoản nhẹ hơn nhiều so với Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985. Hình phạt cao nhất đối với tội phạm này là mười năm tù. So với khung hình phạt quy định về hành vi buôn lậu, thì hành vi vận chuyển trái phép... được coi là có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Nói chung, do tội phạm này được tách từ Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, nên các dấu hiệu cấu thành tội phạm, các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt cũng tương tự như tội buôn lậu, chỉ khác ở chỗ nhà làm luật quy định nhẹ hơn tội buôn lậu. Tuy nhiên, để bạn đọc tiện theo dõi chúng tôi vẫn lần lượt giới thiệu các dấu hiệu cơ bản của tội phạm này, đồng thời tập trung phân tích những dấu hiệu riêng có của tội phạm này. 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm này không có gì đặc biệt so với các tội phạm khác, chỉ cần người có năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật là có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 1, khoản 2 của điều luật; người đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 của điều luật; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 3 của điều luật, vì khoản 1 và khoản 2 của điều luật là tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, còn khoản 3 của điều luật là tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu vật phạm pháp là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý dưới một trăm triệu đồng, hàng cấm nhưng số lượng chưa lớn hoặc vật phạm pháp là vật phẩm có giá trị lịch sử, văn hoá, thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi vận chuyển trái phép... hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 153, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội vận chuyển trái phép... - Đã bị xử phạt hành chính về hành vi vận chuyển trái phép... và đã bị kết án về hành vi vận chuyển trái phép... cũng tương tự như trường hợp đã bị xử phạt hành chính và đã bị kết án về hành vi buôn lậu đã được phân tích ở tội buôn lậu. 10 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Nếu trước đây, tội phạm này được nhà làm luật quy định tại chương “các tội xâm phạm an ninh quốc gia” thì khách thể của tội phạm là an ninh kinh tế. Nay được nhà làm luật quy định tại chương “các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế”, thì khách thể của tội phạm này không còn là an ninh kinh tế nữa mà là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc vận chuyển hàng hoá, tiền tệ, kim khí dá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, hàng cấm qua biên giới. Đối tượng tác động của tội phạm này cũng là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá và hàng cấm. Khi xác định đối tượng tác động, nếu cần phải trưng cầu giám định của cơ quan chuyên môn thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định xem đối tượng tác động của tội buôn lậu. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Nếu ở tội buôn lậu, người phạm tội chỉ có hành vi buôn bán trái phép qua biên giới, thì tội vận chuyển trái phép...,người phạm tội cũng chỉ có hành vi vận chuyển bằng nhiều thủ đoạn và phương pháp khác nhau đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không hoặc thông qua bưu chính viễn thông. Dấu hiệu đặc trưng để phân biệt với hành vi buôn lậu là người phạm tội không phải là chủ hàng, họ chỉ là người vận chuyển cho chủ hàng, có lấy tiền công hoặc không lấy tiền công thông thường là vận chuyển thuê. Nếu người vận chuyển trái phép... là người đồng phạm trong vụ án buôn lậu thì hành vi vận chuyển trái phép...bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 153 về tội buôn lậu. Người phạm tội có thể tự mình vận chuyển trái phép... hoặc thông qua người khác để vận chuyển trái phép... Nếu thông qua người khác để vận chuyển thì cần phân biệt Nếu là vụ án vận chuyển trái phép... có đồng phạm thì hành vi thông qua người khác để vận chuyển là hành vi của người giữ vai trò chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, còn người trực tiếp vận chuyển là người thực hành; nếu người trực tiếp vận chuyển là người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì hành vi thông qua người khác để vận chuyển được coi là hành vi của người giữ vai trò là người thực hành, người trực tiếp vận chuyển chỉ là phương tiện để người phạm tội sử dụng để phạm tội. Đây cũng là thủ đoạn mà người phạm tội buôn lậu cũng như người phạm tội vận chuyển trái phép... thường sử dụng để tránh sự trừng trị của pháp luật. Đối với hàng hoá, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá và hàng cấm, người phạm tội vận chuyển trái phép...thường là người vận chuyển thuê cho người buôn lậu, còn đối với tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý thì thông thường người phạm tội vận chuyển cho mình, như mang qua biên giới quá số lượng quy định. b. Hậu quả Hậu quả của hành vi vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới là những thiệt hại đến tính mạng, tài sản và những thiệt hại khác do hành vi vận chuyển trái phép... gây ra. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm cũng như không phải là yếu tố định khung hình phạt của tội phạm này. Vấn đề đặt ra là, hành vi vận chuyển trái phép... thực tế có gây ra hậu quả không, vì nhà làm luật không quy định dấu hiệu này trong cấu thành cũng như không quy định gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt. Về lý luận cũng như thực tiễn, thì hành vi vận chuyển trái phép... vẫn có thể gây ra hậu quả hoặc đe doạ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, hậu quả do hành vi vận chuyển trái phép... không có ý nghĩa làm thay đổi tính chất nguy hiểm của hành vi vận chuyển trái phép... Nếu trong quá trình vận chuyển trái phép... mà gây ra những hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội độc lập cùng với tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới. Ví dụ Hoàng Văn T vận chuyển hàng lậu qua biên giới bị tổ tuần tra phát hiện, T lái xe bỏ chạy gây tai nạn làm một người chết và một người bị thương. Hành vi của Hoàng Văn T là hành vi phạm tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới và tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, đối với tội vận chuyển trái phép..., nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu băt buộc của cấu thành tội phạm như Giá trị hàng phạm pháp, số lượng hàng phạm pháp, địa điểm phạm tội. Nếu thiếu các dấu hiệu này thì dù một người có hành vi vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, dá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá hoặc hàng cấm qua biên giới cũng không phải là hành vi vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới. Các dấu hiệu này cũng tương tự như đối với tội buôn lậu xem các dấu hiệu khách quan khác của tội buôn lậu. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới là do cố ý cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi vận chuyển trái phép qua biên giới, thấy trước được hậu quả của của hành vi vận chuyển trái phép qua biên giới và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Nếu người phạm tội biết rõ hàng hoá, tiền tệ mà mình vận chuyển là hàng do người khác buôn lậu, nhưng vẫn vận chuyển thuê hoặc vận chuyển hộ, thì hành vi vận chuyển trái phép này bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu với vai trò đồng phạm. Động cơ, mục đích của người phạm tội tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng việc xác định mục đích của người phạm tội có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt, nếu vì lợi nhuận mà vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới, thì tính chất nguy hiểm cao hơn người phạm tội vì cảm tình, nể nang, mà vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 154 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới, người phạm tội có thể bị phạt phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. So với tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn nhiều, đồng thời có nhiều quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội. Khoản 1 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là hai năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 1, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ, chỉ nên áp dụng hình phạt tù đối với trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. 2. Vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 154 Bộ luật hình sự a. Vật phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng Cũng như đối với tội buôn lậu, trường hợp phạm tội này xác định không khó, chỉ cần căn cứ vào giá trị vật phạm pháp mà người phạm tội vận chuyển trái phép qua biên giới. Nếu vật phạm pháp có giá trị từ ba răm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng là hành vi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 154 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi xác định giá trị vật phạm pháp không phải là tiền tệ, các cơ quan tiến hành tố tụng cần căn cứ vào giá trị thật của hàng phạm pháp. Giá trị thật của hàng phạm pháp là theo giá trị thị trường ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm, bởi lẽ trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiện hành vi. Nếu hàng phạm pháp là những hàng hoá không phải hàng cấm, nhưng chưa được lưu thông trên thị trường hoặc hàng hoá khó xác định giá trị thật thì phải trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định, cần yêu cầu cụ thể giá trị hàng hoá đó là bao nhiêu vào thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội và ở địa bàn xảy ra tội phạm, chứ không phải vào thời điểm giám định và tại địa điểm khác. Đây là vấn đề tuy không khó nhưng thực tiễn xét xử, không ít trường hợp do yêu cầu không cụ thể nên cơ quan định giá chỉ xác định giá trị tài sản vào thời điểm giám định hoặc theo giá chung của Nhà nước dẫn đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không chính xác. Trường hợp vật phạm pháp vừa là hàng hoá được lưu thông vừa là vật phẩm thuộc di tích lịch sử vừa là hàng cấm thì vấn đề xác định giá trị hàng phạm pháp cần được các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất mà chúng tôi đã nêu tại điểm d khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự. b. Hàng cấm có số lượng rất lớn; Việc xác định hàng cấm có số lượng rất lớn cũng tương tự như trường hợp buôn lậu hàng cấm có số lượng rất lớn quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự, các cơ quan chức năng chưa có giải thích hướng dẫn cụ thể, một vài trường hợp như đối với thuốc là điều của nước ngoài thì cũng không còn phù hợp nữa. Vì vậy, dù có hướng dẫn hay không thì việc xác định hàng cấm có số lượng rất lớn cần phải tuỳ từng loại hàng cấm và tình hình kinh tế xã hội ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm nhất địch, mà ấn định một số lượng nhất định để làm căn cứ xác định hàng cấm có số lượng lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn. c. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới là trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới. Người có chức vụ quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Người có chức vụ, quyền hạn nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới thì cũng không bị coi là phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 154 Bộ luật hình sự. Thông thường, người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới, đồng thời cũng lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người phạm tội chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc chỉ lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tỏ chức. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới nguy hiểm hơn trường hợp bình thường, vì hành vi phạm tội khó bị phát hiện hơn trường hợp bình thường. Mặt khác, việc Nhà nước coi hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới cần phải xử lý nghiêm khắc hơn cũng nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong thời gian vừa qua. d. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là người phạm tội thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới. Thông thường, người phạm tội thông qua các hợp đồng vận chuyển để vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới. Ví dụ Đỗ Kim T là Thuyền trưởng Tầu 765-QN thuộc Công ty vận tải biển tỉnh QN. T nhận nhiệm vụ cùng thủy thủ Tầu 765-QN vận chuyển gạo từ An Giang ra Hải Phòng, nhưng trên đường vận chuyển, T đã nhận vận chuyển thuê hàng lậu cho Nguyễn Quốc K. Khi Tầu qua các trạm kiểm soát, T xuất trình giấy tờ và hợp đồng vận chuyển gạo, nên tránh được sự phát hiện của cơ quan chức năng. Tuy nhiên, khi T đang giao gạo cho bên nhận, các cơ quan chức năng đã phát hiện trên tàu có hàng lậu. đ. Phạm tội nhiều lần; Phạm tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới nhiều lần là có từ hai lần vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới trở lên và mỗi lần vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý kỷ luật, phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. e. Tái phạm nguy hiểm. Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự và bất kỳ trường hợp tái phạm nguy hiểm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, phạm tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi - Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 154 Bộ luật hình sự, nếu chỉ phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 154 Bộ luật hình sự thì chưa thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm vì khoản 1, khoản 2 Điều 154 Bộ luật hình sự không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, nếu người phạm tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm này thì đồng thời đã thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của Điều 154 nên việc xác định tình tiết tái phạm nguy hiểm chỉ có ý nghĩa là tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 154 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ hai năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. So với tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội buôn lậu trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 2 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới theo khoản 2 Điều 154 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới 2 năm tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù. 3. Vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 154 Bộ luật hình sự Khoản 3 của điều luật cũng quy định hai trường hợp phạm tội, nhưng không cấu tạo như các khoản khác có điểm a, b... mà quy định chung. Đó là “hàng phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên” và “hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn” a. Hàng phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên Trường hợp phạm tội này cũng tương tự với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ giá trị hàng phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên. Cũng như trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 khi xác định giá trị vật phạm pháp không phải là tiền tệ, các cơ quan tiến hành tố tụng cần căn cứ vào giá trị thật của hàng phạm pháp. Giá trị thật của hàng phạm pháp là theo giá trị thị trường ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm, bởi lẽ trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiện hành vi. Nếu hàng phạm pháp là những hàng hoá không phải hàng cấm, nhưng chưa được lưu thông trên thị trường hoặc hàng hoá khó xác định giá trị thật thì phải trưng cầu giám định. b. Hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn Việc xác định hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 điều luật, nhưng chưa có giải thích hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, khi xác định hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn cần phải tuỳ từng loại hàng cấm và tình hình kinh tế xã hội ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm nhất địch, mà ấn định một số lượng nhất định để làm căn cứ xác định hàng cấm có số lượng lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 154 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ năm năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. So với tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 3 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội buôn lậu trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 2 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới theo khoản 3 Điều 154 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới năm năm tù, nhưng không được dưới hai năm, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 Điều 154 Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến mười triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới tại Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi bổ sung như sau Nếu Điều 100 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “ có thể bị tước một số quyền công dân từ một năm đến năm năm”, thì khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 4 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999. Nếu Điều 100 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “thì bị phạt tiền đến mười lần giá trị hàng phạm pháp”, thì khoản 4 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến mười triệu đồng”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 4 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng không được quá 10 lần giá trị hàng phạm pháp. Nếu Điều 100 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “ có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, thì khoản 4 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định loại hình phạt này nữa. Vì vậy, nếu hành vi vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với người phạm tội. 3. TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN HÀNG CẤM Điều 155. Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm 1. Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng hoá mà Nhà nước cấm kinh doanh có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại các điều 153, 154, 156, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các Điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm a Có tổ chức; b Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; d Có tính chất chuyên nghiệp; đ Hàng phạm pháp có số lượng rất lớn hoặc thu lợi bất chính rất lớn; e Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn hoặc thu lợi bất chính đặc biệt lớn, thì bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là hành vi làm ra, cất giữ, chuyển dịch, mua bán hàng hoá mà Nhà nước cấm kinh doanh Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm đã được quy định tại Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định hành vi buôn bán mà chưa quy định các hành vi sản xuất, tàng trữ và vận chuyển hàng cấm. Thực tiễn xét xử đã cho thấy, hành vi sản xuất, tàng trữ và vận chuyển hàng cấm cũng nguy hiểm không thua kém gì hành vi mua bán hàng cấm, nên nhà làm luật đã bổ sung các hành vi này và Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm bao gồm nhiều hành vi khác nhau, trong đó hành vi sản xuất, tàng trữ và vận chuyển hàng cấm được coi là quy định mới so với Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1985. Vì vậy, đối với hành vi sản xuất, tàng trữ và vận chuyển hàng cấm xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì không bị coi là hành vi phạm tội. Ngoài việc quy định thêm một số hành vi mới là hành vi phạm tội, so với Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1985, Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 còn có những sửa đổi, bổ sung sau - Điều 155 quy định tình tiết “có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại các điều 153, 154, 156, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” vừa là yếu tố địng tội, vừa là dấu hiệu làm ranh giới giữa hành vi tội phạm với hành vi vi phạm; - Điều 155 quy định tình tiết “nếu không thuộc trường hợp quy định tại các Điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này” là để giới hạn việc áp dụng Điều 155 và là dấu hiệu để phân biệt tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm với một số tội phạm khác trong Bộ luật hình sự mà đối tượng phạm tội cũng là hàng mà Nhà nước cấm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán. - Ngoài những tình tiết là yếu tố định khung hình phạt đã được quy định tại Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1985, Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định thêm một sô tình tiết mới là yếu tố định khung hình phạt như “Hàng phạm pháp có số lượng rất lớn hoặc thu lợi bất chính rất lớn; hàng phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn hoặc thu lợi bất chính đặc biệt lớn”. - So với Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1985, Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 bỏ sung hình phạt tiền là hình phạt chính; các mức hình phạt tù quy định trong từng khung hình phạt tại Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 đều nhẹ hơn mức hình phạt quy định tại Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1985. - Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Như đã giới thiệu ở trên, các dấu hiệu cấu thành tội phạm này có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội, nhà làm luật quy định tình tiết là dấu hiệu để phân biệt hành phạm tội với hành vi vi phạm, giữa tội phạm này với một số tội phạm khác. Các dấu hiệu này đều thuộc mặt khách quan của tội phạm. 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này cũng không có gì đặc biệt, chỉ cần người có năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật là có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 1 của điều luật, chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 2 và khoản 3 của điều luật, vì khoản 1 của điều luật là tội phạm nghiêm trọng, còn khoản 2 và khoản 3 của điều luật là tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu vật phạm pháp có số lượng chưa lớn hoặc người phạm tội thu lợi bất chính chưa lớn, thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm hoặc là hành vi quy định tại một trong các điều 153, 154, 156, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. - Đã bị xử phạt hành chính về hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm và đã bị kết án về hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm cũng tương tự như trường hợp đã bị xử phạt hành chính và đã bị kết án về hành vi buôn lậu đã được phân tích ở tội buôn lậu. 11 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong phạm vi lãnh thổ nước ta. Đối tượng tác động của tội phạm này cũng là hàng hoá mà Nhà nước cấm kinh doanh. Hàng hoá mà Nhà nước cấm kinh doanh có nhiều loại, nhưng một số loại đã là đối tượng của các tội quy định tại các điều 153, 154, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 Bộ luật hình sự thì không còn là đối tượng của tội phạm này nữa. Việc xác định thế nào là hàng cấm, phải căn cứ vào quy định của Nhà nước thường là của Bộ thương mại tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của tình hình kinh tế-xã hội và vào chính sách của Nhà nước về quản lý kinh doanh. Hiện nay Nhà nước ta đang cấm kinh doanh các mặt hàng sau - Các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng; - Các sản phẩm văn hoá phẩm đồi truỵ, mê tín dị đoan hoặc có hại tới giáo dục nhân cách; - Thuốc là điếu sản xuất tại nước ngoài; - Các loại pháo; - Các loại thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người và gia súc, thuốc bảo vệ thực vật và các trang thiết bị, dụng cụ y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam; - Thực động vật hoang dã thuộc danh mục Công ước quốc tế quy định mà Việt Nam tham gia ký kết và các loại động vật, thực vật quý hiếm khác cần được bảo vệ; - Một số đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Trong số hàng hoá Nhà nước cấm kinh doanh trên, nếu loại nào đã là đối tượng của tội phạm khác thì không là đối tượng của tội phạm này nữa. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Điều luật quy định nhiều hành vi khách quan khác nhau như sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán. Vì vậy, khi định tội tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội thực hiện hành vi nào thì định tội theo hành vi đó, mà không định tội hết tất cả các hành vi được liệt kê trong điều luật. Ví dụ Một người chỉ thực hiện hành vi tàng trữ hàng cấm thì chỉ định tội là “tàng trữ hàng cấm”, mà không định tội là “sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm”. Nếu người phạm tội thực hiện hai hoặc ba hành vi thì định tội theo hai hoặc ba hành vi mà họ thực hiện. Ví dụ Một người thực hiện hành vi vận chuyển và hành vi sản xuất thì định tội là “sản xuất và vận chuyển hàng cấm”. Các trường hợp trên, Toà án chỉ áp dụng một mức hình phạt. Nếu người phạm tội thực hiện nhiều hành vi khác nhau đối với nhiều đối tượng phạm tội khác nhau thì việc định tội có phức tạp hơn. Ví dụ Một người tàng trữ 10 kilôgam pháo và mua bán bao thuốc lá 555 ngoại, thì người này phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội tội “tàng trữ hàng cấm” và tội “buôn bán hàng cấm” Toà án quyết định hình phạt riêng đối với từng tội và áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Sản xuất hàng cấm là làm ra hàng hoá mà Nhà nước cấm kinh doanh với nhiều hình thức khác nhau như Chế tạo, chế biến, nhân giống, sao chép, sáng tác, dịch thuật... Nói chung, hàng cấm được sản xuất ra chủ yếu bằng phương pháp công nghiệp theo một quy trình từ nguyên liệu đến sản phaamee. Tàng trữ hàng cấm là cất giữ bất hợp pháp hàng hoá mà Nhà nước cấm kinh doanh ở bất cứ nơi nào như Trong nhà ở; phòng làm việc; trụ sở cơ quan, tổ chức; phương tiện giao thông; trong túi quần áo, túi xách... mà không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất ra hàng cấm khác hoặc vận chuyển từ này đến nơi khác. Nếu tàng trữ hàng cấm cho người mà khác biết rõ người này buôn bán hàng cấm thì hành vi cất giữ hàng cấm không phải là hành vi tàng trữ mà là hành vi giúp sức người buôn bán hàng cấm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm với vai trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi buôn bán, vận chuyển đã được quy định trong cùng một điều luật nên việc xác định chính xác hành vi tàng trữ, hành vi vận chuyển hay hành vi buôn bán chỉ có ý nghĩa trong việc định tội theo hành vi một hoặc một số hành vi hay định tội theo hành vi đầy đủ, nếu cùng một loại hàng cấm. Khi xác định hành vi tàng trữ hàng cấm, cần phân biệt với hành vi chứa chấp hoặc tiệu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu tài sản do người khác phạm tội mà có là hàng cấm mà chứa chấp hoặc tiêu thụ thì hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ hàng cấm hoặc mua bán hàng cấm. Vận chuyển hàng cấm là hành vi chuyển dịch hàng hoá Nhà nước cấm kinh doanh từ nơi này đến nơi khác, từ vị trí này sang vị trí khác, từ người này sang người khác... bằng bất kỳ phương thức nào trừ hình thức chiếm đoạt, nhưng đều không nhằm mục đích buôn bán. Nếu vận chuyển qua biên giới thì thuộc trường hợp quy định tại Điều 154 Bộ luật hình sự. Nếu vận chuyển hàng cấm hộ cho người khác mà biết rõ mục đích buôn bán ma tuý của người mà mình nhận vận chuyển hộ thì người có hành vi vận chuyển bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm với vai trò giúp sức. Buôn bán hàng cấm là mua, xin, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nhằm bán lại cho người khác; dùng hàng cấm để trao đổi, thanh toán; dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán... lấy hàng cấm để bán lại cho người khác. b. Hậu quả Hậu quả của hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm gây ra là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ... Đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm mà nó chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, nếu hậu quả đó là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu băt buộc của cấu thành tội phạm như Số lượng hàng phạm pháp, thu lợi bất chính. Nếu các dấu hiệu khác đã đủ nhưng số lượng hàng cấm chưa lớn hoặc người phạm tội thu lợi bất chính chưa lớn, thì dù một người có hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm cũng không phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Về tình tiết hàng cấm có số lượng lớn và thu lợi bất chính lớn chúng ta đã nghiên cứu ở tội buôn lậu, vì hiện nay chưa có hướng dẫn chính thức về các tình tiết này, nên chúng tôi chỉ nêu những quan điểm khác nhau về việc xác định thế nào là hàng cấm có số lượng lớn và thế nào là thu lợi bất chính lớn xem thêm hàng cấm có số lượng lớn và thu lợi bất chính lớn ở tội buôn lậu. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là do cố ý cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của của hành vi và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ, mục đích của người phạm tội tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng việc xác định mục đích của người phạm tội có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt, nếu vì lợi nhuận mà sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, thì tính chất nguy hiểm cao hơn người phạm tội vì cảm tình, nể nang, mà sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, người phạm tội có thể bị phạt phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. So với tội buôn bán hàng cấm quy định tại Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999, nếu chỉ căn cứ vào mức hình phạt tù thì khoản 1 Điều 155 không nhẹ hơn. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 155 quy định thêm hình phạt tiền là hình phạt chính, nên phải coi khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội. Khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là năm năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội chỉ có một hành vi quy định tại điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tù dưới 6 tháng tù; nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể thì có thể phạt tới năm Năm tù; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. 2. Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự xem chú thích số 6. Khi áp dụng trường hợp phạm tội có tổ chức đối với tội phạm này cần chú ý Nếu một người thực hiện nhiều hành vi quy định trong điều luật với cùng một đối tượng phạm tội, nhưng trong đó chỉ có một hành vi là phạm tội có tổ chức, thì người phạm tội vẫn bị áp dụng điểm a khoản 2 của điều luật. Ví dụ A, B, C và D bàn bạc thống nhất sản xuất 40 kilôgam pháo nổ. A và B được phân công trực tiếp sản xuất, còn C và D được phân công vận chuyển số pháo này đem bán thì bị bắt. Trong trường hợp này cả A, B, C và D đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất hàng cấm có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự. Nếu một người thực hiện nhiều hành vi quy định trong điều luật nhưng đối với nhiều đối tượng phạm tội khác nhau, nhưng trong đó chỉ có một hành vi phạm tội có tổ chức, còn các hành vi khác không có tổ chức, thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi có tổ chức, còn các hành vi khác tuỳ trường hợp cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự họ theo điều khoản tương ứng và bị tổng hợp hình phạt theo Điều 50 Bộ luật hình sự. Ví dụ Phạm Quốc A, Bùi Văn H, Lê Hồng Q và Nguyễn Trung Th bàn bạc thống nhất góp tiền sang Cam-Pu-Chia mua bao thuốc lá 555 ngoại. Phạm Quốc A phân công Nguyễn Trung Th và Lê Hồng Q vận chuyển số thuốc lá ngoại trên về Việt Nam. Trên đường áp tải hàng về Việt Nam, Nguyễn Trung Th và Lê Hồng Q còn nhận vận chuyển thêm cho người khác bao thuốc lá 555. Trong trường hợp phạm tội này, Phạm Quốc A, Bùi Văn H, Lê Hồng Q và Nguyễn Trung Th phạm tội buôn bán hàng cấm có tổ chức. Riêng Nguyễn Trung Th và Lê Hồng Q còn phạm tội vận chuyển hàng cấm. b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Cũng như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Nếu những người này, lợi dụng chức vụ để sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, thì mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội. Nếu có chức vụ, nhưng lại không lợi dụng chức vụ để sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, thì không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự. Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông thường là người có chức vụ, nhưng cũng có thể là người không có chức vụ nhưng được giao hoặc được thạm gia thực hiện một công vụ. Ví dụ Đặng Quang P là nhân viên của Công ty vật tư xây dựng được giao áp tải hàng từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội, P đã lợi dụng việc áp tải hàng để mua bao thuốc lá 555 của nước ngoài từ thành phố Hồ Chí Minh giấu vào hàng của Công ty nhằm đưa ra Hà Nội bán kiếm lời. c. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là người phạm tội thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Thông thường, người phạm tội trường hợp này là thông qua các hợp đồng kinh tế để sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. d. Có tính chất chuyên nghiệp; Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm tội chủ yếu lấy việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là nguồn sống chính của bản thân và gia đình mình và hành vi đó được lặp đi lặp lại nhiều lần nếu người phạm tội lấy việc phạm tội là nguồn sống chính, nhưng mới phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm một lần dù với quy mô như thế nào thì cũng không thuộc trường hợp có tính chất chuyên nghiệp. đ. Hàng phạm pháp có số lượng rất lớn hoặc thu lợi bất chính rất lớn; Điểm đ khoản 2 của điều luật quy định hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là Hàng phạm pháp có số lượng rất lớn và người phạm tội thu lợi bất chính rất lớn. Hai tình tiết này hoàn toàn tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 153 và điểm c khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự về tội buôn lậu. Hàng phạm pháp có số lượng rất lớn là trường hợp người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm mà số lượng hàng cấm đó được coi là lớn. Tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự, việc xác định hàng cấm có số lượng rất lớn còn nhiều ý kiến khác nhau Quan điểm thứ nhát cho rằng quy định cụ thể một số lượng nhất định đối với một loại hàng cấm nhất định đẻ làm căn cứ xác định như thế nào là lớn, rất lớn và đặc biệt lớn. Nếu căn cứ vào cách tính này, thì hàng cấm có số lượng rất lớn được xác định như sau - Đối với hàng cấm là thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài, thì số lượng từ bao đến dưới bao là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng, thì từ 5 đến dưới 10 hiện vật là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì từ100 đến dưới 500 sản phẩm là hàng cấm có số lượng rất lớn; - Đối với trường hợp hàng cấm là các loại pháo, thì từ 90kg đến dưới 300kg là hàng cấm có số lượng rất lớn. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, viẹc xác định hàng cấm có số lượng lớn cần phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà quy ra một đại lượng giá trị chung cho tất cả các loại hàng hoá mà Nhà nước cấm kinh doanh. Theo cách tính này thì được coi là hàng cấm có số lượng rất lớn - Nếu hàng cấm là hàng hoá có giá trị, thì căn cứ vào giá trị thực của nó để xác định một số lượng tương đương với một số tiền mà nếu đem bán hàng hoá cấm đó thu được. Ví dụ Hàng cấm là thuốc lá điếu của nước ngoài ba số năm 555, thì coi là có số lượng rất lớn, nếu có từ bao đến dưới bao tương đương với từ đồng đến dưới đồng tính mỗi bao đồng. - Nếu là hàng cấm không thuộc loại có thể tính ra được bằng tiền thì có thể căn cứ vào giá trị mà người phạm tội đã mua hoặc giá trị thật nếu như đem bán loại hàng cấm đó để làm căn cứ xác định số lượng bao nhiêu là lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn. Ví dụ Một người buôn lậu một con gấu, một con hổ mặt đều thuộc động vật quý hiếm. Người này khai mua con gấu là đồng, con hổ là đồng. Cơ quan điều tra xác minh đúng như lời người phạm tội khai. Trường hợp này, phải xác định là hàng cấm có số lượng rất lớn, mặc dù chỉ có hai con hai vật thể. Thu lợi bất chính rất lớn Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự về tội buôn lậu, chỉ khác ở chỗ lợi nhuận mà người phạm tội thu được là rất lớn là do hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Cũng như trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 Điều 153 Bộ luật hình sự, Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính rất lớn nếu người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm thu lợi bất chính từ đồng đến dưới đồng. e. Tái phạm nguy hiểm. Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự và bất kỳ trường hợp tái phạm nguy hiểm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi - Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 155 Bộ luật hình sự, nếu chỉ phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự thì chưa thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm vì khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, nếu người phạm tội buôn thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm này thì đồng thời đã thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 của Điều 155 nên việc xác định tình tiết tái phạm nguy hiểm chỉ có ý nghĩa là tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự chứ không có ý nghĩa xác định điều khoản của Điều 155 Bộ luật hình sự. - Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm không phân biệt phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của Điều 155 Bộ luật hình sự. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với tội buôn bán hàng cấm quy định tại Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội buôn bán hàng cấm trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999. Nếu người phạm tội thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, hàng cấm trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phat hiện thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này bất cứ ở khoản nào của điều luật. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới 3 năm tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù. 3. Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 155 Bộ luật hình sự Khoản 3 của điều luật cũng quy định hai trường hợp phạm tội, nhưng không cấu tạo như các khoản khác có điểm a, b... mà quy định chung. Đó là “hàng phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn” và “thu lợi bất chính đặc biệt lớn” a. Hàng phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn Trường hợp phạm tội này cũng tương tự với trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ Hàng phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn. Việc xác định hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 điều luật, nhưng chưa có giải thích hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, khi xác định hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn cần phải tuỳ từng loại hàng cấm và tình hình kinh tế xã hội ở nơi xảy ra tội phạm vào thời điểm nhất địch, mà ấn định một số lượng nhất định để làm căn cứ xác định hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn. b. Thu lợi bất chính đặc biệt lớn Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ lợi nhuận do hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm mà người phạm tội thu được là đặc biệt lớn. Cũng như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật, Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính đặc biệt lớn nếu người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm thu lợi bất chính từ đồng trở lên. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 155 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ tám năm đến mười lăm năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với tội buôn bán hàng cấm quy định tại Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 3 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội buôn bán hàng cấm trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999. Nếu người phạm tội thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, hàng cấm trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phat hiện thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này bất cứ ở khoản nào của điều luật. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm theo khoản 3 Điều 155 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới tám năm tù, nhưng không được dưới ba năm, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với tội buôn bán hàng cấm quy định tại Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm tại Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi bổ sung như sau Nếu Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “ thì tuỳ trường hợp mà có thể bị phạt tiền đến mười lần trị giá hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính”, thì khoản 4 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không được quá ba mươi triệu và cũng không được quá mười lần trị giá hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính. Nếu Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, thì khoản 4 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định loại hình phạt này nữa. Vì vậy, nếu người phạm tội buôn bán hàng cấm xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì Toà án không được áp dụng hình phạt tịch thu tài sản đối với người phạm tội. Nếu Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 4 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Vì vậy, nếu người phạm tội buôn bán hàng cấm xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 4 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. 4. TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ Điều 156. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả 1. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc dưới ba mươi triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 154, 155, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm a Có tổ chức; b Có tính chất chuyên nghiệp; c Tái phạm nguy hiểm; d Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; đ Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; e Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; g Thu lợi bất chính lớn; h Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm a Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b Thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn; c Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa Sản xuất, buôn bán hàng giả là hành vi làm ra, mua bán hàng hoá không phải là hàng thật. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả đã được quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hai tội phạm riêng biệt, đó là “tội làm hàng giả” và “tội buôn bán hàng giả”, còn 156 Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn quy định hai hành vi trong cùng một tội danh, đó là “sản xuất, buôn bán hàng giả”. Xét về bản chất thì không có gì khác nhau, nhưng về kỹ thuật lập pháp và việc định tội danh có những thay đổi nhất định. So với Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều thay đổi cơ bản, cả về dấu hiệu cấu thành tội phạm cũng như mức hình phạt như đều theo hướng có lợi cho người phạm tội - Có tình tiết trước đây chỉ là yếu tố định khung hình phạt nay nhà làm luật quy định thành tội danh độc lập như “hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi”. - Nếu Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định, làm hàng giả với bất cứ số lượng bao nhiêu, đều bị coi là tội phạm thì Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định Hàng giả phải có số lượng tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, nếu dưới ba mươi triệu đồng thì phải kèm theo điều kiện là người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 154, 155, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm hoặc hành vi sản xuất hoặc buôn bán hàng giả đã gây hậu quả nghiêm trọng, thì mới cấu thành tội phạm. - Nếu Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định hàng giả có số lượng lớn, thì Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định định cụ thể số lượng hàng giả tương đương với hàng thật có giá trị là yếu tố định khung hình phạt; - Nếu Điều 167 chỉ quy định thu lợi bất chính lớn, Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm trường hợp thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn là yếu tố định khung hình phạt. - Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng một điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Như đã giới thiệu ở trên, trừ trường hợp tách tình tiết là yếu tố định khung hình phạt thành tội phạm độc lập, thì các dấu hiệu cấu thành tội phạm này có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội, nhà làm luật quy định tình tiết là dấu hiệu để phân biệt hành phạm tội với hành vi vi phạm, giữa tội phạm này với một số tội phạm khác. Các dấu hiệu này đều thuộc mặt khách quan của tội phạm. 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này cũng không có gì đặc biệt, chỉ cần người có năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật là có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 1 của điều luật, chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 2 và khoản 3 của điều luật, vì khoản 1 của điều luật là tội phạm nghiêm trọng, còn khoản 2 và khoản 3 của điều luật là tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu hàng giả chưa có số lượng tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 154, 155, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội phạm. - Đã bị xử phạt hành chính về hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả và đã bị kết án về hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả cũng tương tự như trường hợp đã bị xử phạt hành chính và đã bị kết án về hành vi buôn lậu đã được phân tích ở tội buôn 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc sản xuất, buôn bán hàng hoá, chống hàng giả. Đối tượng tác động của tội phạm này là hàng hoá được sản xuất, buôn bán không phải là hàng thật hàng giả. Việc xác định thế nào là hàng giả nói chung không có gì khó, nhiều trường hợp không cần các cơ quan chức năng giám định cũng biết đó là hàng giả. Tuy nhiên, do quy định không rõ ràng nên có trường hợp việc xác định hàng giả với hàng kém phẩm chất, hàng giả với hàng do hành vi vi phạm nhãn hiệu thương phẩm hàng nhái gặp khó khăn. Hiện nay việc xác định thế nào là hàng giả, căn cứ vào Nghị định Số 140-HĐBT ngày 25-4-1991 của Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ quy định về kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả chưa có văn bản nào thay thế văn bản này. Căn cứ vào Điều 3 của Nghị định trên, thì hàng giả là những sản phẩm, hàng hoá được sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống như những sản phẩm, hàng hoá được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường; hoặc những sản phẩm, hàng hoá không có giá trị sử dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó. Căn cứ vào Điều 4 của Nghị định trên, thì Sản phẩm, hàng hoá có một trong những dấu hiệu dưới đây được coi là hàng giả - Sản phẩm, hàng hoá kể cả hàng nhập khẩu có nhãn sản phẩm giả mạo hoặc nhãn sản phẩm của một cơ sở sản xuất khác mà không được chủ nhãn đồng ý; - Sản phẩm, hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giống hệt hoặc tương tự có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của cơ sở sản xuất, buôn bán khác đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp Cục sáng chế, hoặc đã được bảo hộ theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia; - Sản phẩm, hàng hoá mang nhãn không đúng với nhãn sản phẩm đã đăng ký với cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng; - Sản phẩm, hàng hoá ghi dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam khi chưa được cấp giấy chứng nhận và dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam; - Sản phẩm, hàng hoá đã đăng ký hoặc chưa đăng ký chất lượng với cơ quan Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng mà có mức chất lượng thấp hơn mức tối thiểu cho phép; - Sản phẩm, hàng hoá có giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc, bản chất, tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó. Nếu nếu hàng giả là đối tượng của các tội phạm khác thì người có hành vi sản xuất hoặc buôn bán sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng như Tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả, séc giả, các giấy tờ có giá giả khác, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 180 và 181 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu hàng giả lại là đối tượng của các tội phạm quy định tại các điều 157, 158, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236, và 238 Bộ luật hình sự thì có nhiều quan điểm khác nhau về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội Quan điểm thứ nhất cho rằng, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất hàng cấm theo Điều 155 Bộ luật hình sự. Quan điểm thứ hai cho rằng, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất hàng giả theo Điều 156 Bộ luật hình sự. Quan điểm thứ hai cho rằng, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 Bộ luật hình sự. Các quan điểm nêu trên đều có nhân tố hợp lý, nhưng để áp dụng thống nhất, các cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn cụ thể trong các trường hợp nêu trên, thì truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội gì. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Điều luật quy định hai hành vi khách quan khác nhau, đó là sản xuất và buôn bán. Vì vậy, khi định tội tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội thực hiện hành vi nào thì định tội theo hành vi đó, mà không định tội hết tất cả hai hành vi được liệt kê trong điều luật. Ví dụ Một người chỉ thực hiện hành vi sản xuất hàng giả thì chỉ định tội là “sản xuất hàng giả”, mà không định tội là “sản xuất, buôn bán hàng giả”. Nếu người phạm tội thực hiện cả hai hành vi cùng một đối tượng phạm tội thì định tội là “sản xuất và buôn bán hàng giả” Các trường hợp trên, Toà án chỉ áp dụng một mức hình phạt. Nếu người phạm tội thực hiện hai hành vi khác nhau đối với hai đối tượng phạm tội khác nhau thì việc định tội có phức tạp hơn. Ví dụ Một người sản xuất 100 chai rượu vang Thăng Long giả và buôn bán 5000 bao thuốc lá giả, thì người này phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội tội “sản xuất hàng giả” và tội “buôn bán hàng giả” Toà án quyết định hình phạt riêng đối với từng tội và áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Sản xuất hàng giả là làm ra sản phẩm, hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giống hệt hoặc tương tự có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của cơ sở sản xuất, buôn bán khác đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp Cục sáng chế, hoặc đã được bảo hộ theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia với nhiều hình thức khác nhau như Chế tạo, chế biến, nhân giống, sao chép, sáng tác, dịch thuật... Nói chung, hàng giả được sản xuất ra chủ yếu bằng phương pháp công nghiệp theo một quy trình từ nguyên liệu đến sản phẩm. Bộ luật hình sự năm 1999 không dùng thuật ngữ “làm hàng giả” mà dùng thuật ngữ “sản xuất hàng giả”. Điều này cũng cho thấy, những loại sản phẩm được làm ra không theo một quy trình từ nguyên liệu đén thành phẩm thì không được coi là sản xuất hàng giả mà tuỳ trường hợp người phạm tội làm ra loại sản phẩm đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ Một người dùng mật rắn pha vào một ít mật gấu rồi nói dối người mua đó là mật gấu thật để chiếm đoạt tiền của người mua, thì hành vi này là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Buôn bán hàng giả là mua, xin, tàng trữ, vận chuyển hàng giả nhằm bán lại cho người khác; dùng hàng giả để trao đổi, thanh toán; dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán... lấy hàng giả để bán lại cho người khác. b. Hậu quả Hậu quả của hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả gây ra là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ... hậu qur trực tiếp của hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả là xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp, gây thiệt hại đến lợi ích vật chất, uy tín của doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hoá bị người phạm tội sản xuất hoặc buôn bán hàng giả. Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, trong trường hợp hàng giả chưa có số lượng tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên. Nếu là hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì hậu quả này là yếu tố định khung hình phạt theo khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả, nhà làm luật quy định một dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu băt buộc của cấu thành tội phạm, đó là Hàng giả có số lượng tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên thì mới bị coi là tội phạm. Nếu dưới ba mươi triệu thì phải kèm theo những dấu hiệu khác thuộc về nhân thân của người phạm tội như đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là do cố ý cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi sản xuất hàng giả hoặc biết rõ là hàng giả nhưng vẫn buôn bán; thấy trước được hậu quả của của hành vi và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ, mục đích của người phạm tội tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng việc xác định mục đích của người phạm tội có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. Nói chung, người phạm tội sản xuất hoặc buôn bán hàng giả bao giờ cũng vì lợi nhuận thu lợi bất chính. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội sản xuất, buôn bán hàng giả, người phạm tội có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. So với tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn và nếu so sánh giữa Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là năm năm tù, nên đối với người khi thực hiện tội phạm thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự là người dưới 16 tuổi thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội chỉ có một hành vi quy định tại điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tù dưới 6 tháng tù; nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể thì có thể phạt tới năm năm tù; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. 2. Sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, sản xuất, buôn bán hàng giả có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án sản xuất, buôn bán hàng giả có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự xem chú thích số 6. Cũng như đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, khi áp dụng trường hợp phạm tội có tổ chức đối với tội phạm này cần chú ý Nếu một người thực hiện cả hai hành vi quy định trong điều luật với cùng một đối tượng phạm tội, nhưng trong đó chỉ có một hành vi là phạm tội có tổ chức, thì người phạm tội vẫn bị áp dụng điểm a khoản 2 của điều luật. Nếu một người thực hiện cả hai hành vi quy định trong điều luật nhưng đối với nhiều đối tượng phạm tội khác nhau, nhưng trong đó chỉ có một hành vi phạm tội có tổ chức, còn hành vi khác không có tổ chức, thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi có tổ chức, còn các hành vi khác tuỳ trường hợp cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự họ theo điều khoản tương ứng và bị tổng hợp hình phạt theo Điều 50 Bộ luật hình sự. b. Có tính chất chuyên nghiệp Sản xuất, buôn bán hàng giả có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm tội chủ yếu lấy việc sản xuất hoặc buôn bán hàng giả là nguồn sống chính của bản thân và gia đình mình và hành vi đó được lặp đi lặp lại nhiều lần. Nếu người phạm tội lấy việc phạm tội là nguồn sống chính, nhưng mới phạm tội sản xuất, buôn bán hàng cấm một lần dù với quy mô như thế nào thì cũng không thuộc trường hợp có tính chất chuyên nghiệp. c. Tái phạm nguy hiểm. Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự và bất kỳ trường hợp tái phạm nguy hiểm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi - Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội sản xuất, buôn bán hàng cấm thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự, nếu chỉ phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự thì chưa thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, vì khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, nếu người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm này thì đồng thời đã thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 của Điều 156 nên việc xác định tình tiết tái phạm nguy hiểm chỉ có ý nghĩa là tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự chứ không có ý nghĩa xác định điều khoản của Điều 156 Bộ luật hình sự. - Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả không phân biệt phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của Điều 156 Bộ luật hình sự. d. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn Cũng như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sản xuất, buôn bán hàng giả là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để sản xuất, buôn bán hàng giả. Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Nếu những người này, lợi dụng chức vụ để sản xuất, buôn bán hàng giả, thì mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội. Nếu có chức vụ, nhưng lại không lợi dụng chức vụ để sản xuất, buôn bán hàng giả, thì không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự. Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông thường là người có chức vụ, nhưng cũng có thể là người không có chức vụ nhưng được giao hoặc được thạm gia thực hiện một công vụ. đ. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội khác, lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là người phạm tội thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để sản xuất, buôn bán hàng giả. Thông thường, người phạm tội trường hợp này là thông qua các hợp đồng kinh tế để sản xuất, buôn bán hàng giả. Vụ làm phân bón giả tại Công ty 19-8 Hải Phòng là một ví dụ về điển hình về hành vi lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức. e. Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng Nhà làm luật quy định trường hợp phạm tội này là để thay thế cho trường hợp phạm tội “hàng giả có số lượng lớn” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985 do yêu cầu của thực tiễn xét xử, việc xác định thế nào là hàng giả có số lượng lớn trong một số trường hợp rất khó khăn. Có thể coi đây là quy định mới. Khi xác định trường hợp phạm tội này phải so sánh hàng giả với hàng thật cùng chủng loại, cùng mẫu mã. Ví dụ Hàng giả là lốp xe đạp mang nhãn hiệu “Sao Vàng” có số lượng là 700 chiếc thì phải so sánh với giá trị của 700 chiếc lốp xe đạp nhãn hiệu “Sao Vàng” thật của Nhà máy cao su Sao Vàng. Nếu hàng giả tương đương với hàng thật có giá trị từ đồng đén dưới đồng thì người phạm tội truy cứu trách nhiệm hình sự hình sự theo điểm e khoản 2 của Điều 156 Bộ luật hình sự. g. Thu lợi bất chính lớn Thu lợi bất chính lớn là số tiền lời mà người phạm tội thu được do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Số tiền thu lợi bất chính là hiệu số của giá trị nguyên liệu làm nên hàng giả hoặc số vồn mà người phạm tội bỏ ra để mua hàng giả với số tiền thu được mà người phạm tội bán số hàng giả đó. Ví dụ Một người mua bao thuốc là Vinataba giả với số tiền là đồng đem bán thu được đồng, thì số tiền thu lợi bất chính là đồng - = Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính lớn nếu người phạm tội thu lợi bất chính từ đồng đến dưới đồng. h. Gây hậu quả rất nghiêm trọng. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả gây ra là những thiệt hại rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Trường hợp phạm tội này cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả gây ra, nên chúng ta có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 13 Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới 3 năm tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù. 3. Sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự a. Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từi năm trăm triệu đồng trở lên Trường hợp phạm tội này cũng tương tự với trường hợp quy định tại điểle e khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từi năm trăm triệu đồng trở lên. Việc xác định cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 của điều luật. Nếu người phạm tội sản xuất hoặc buôn bán hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từi năm trăm triệu đồng trở lên là bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự. b. Thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn Trường hợp phạm tội này có hai trường hợp khác nhau có tính chất mức độ nghiêm trọng cũng khác nhau, nhưng lại được quy định trong cùng một điều khoản. Đây không phải là vấn đề cá biệt, nghiên cứu các tội phạm khác, chúng ta cũng thấy có hiện tượng như này. Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt đối với trường hợp phạm tội theo điểm b khoản 3 của điều luật, việc phân biệt hai trường hợp phạm tội này là rất cần thiết, nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì người phạm tội thu lợi bất chính đặc biệt lớn sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội thu lợi bất chính rất lớn. Thu lợi bất chính rất lớn là trường hợp người phạm tội do sản xuất hoặc buôn bán hàng giả mà thu được một khoản lời rất lớn. Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính rất lớn nếu người phạm tội sản xuất hoặc buôn bán hàng giả thu được từ đồng đến dưới đồng. Thu lợi bất chính đặc biệt lớn là trường hợp người phạm tội do sản xuất hoặc buôn bán hàng giả mà thu được một khoản lời đặc biệt lớn. Cũng như trường hợp thu lợi bất chính rất lớn, trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính rất lớn nếu người phạm tội sản xuất hoặc buôn bán hàng giả thu được từ đồng trở lên. c. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp gây hậu quả đặc biệt trong một số tội phạm, phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả gây hậu quả dặc biệt nghiêm trọng là do sản xuất, buôn bán hàng giả mà gây ra những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại khác cho xã hội. Do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả gây ra, nên chúng ta có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 14 Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội sản xuất,buôn bán hàng giả theo khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội chỉ thu lợi bất chính rất lớn hoặc chỉ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới bảy năm tù, nhưng không được dưới ba năm, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội thu lợi bất chính đặc biệt lớn hoặc vừa thu lợi bất chính rát lớn vừa gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng , tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, thì hình phạt bổ sung đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả quy định tại khoản 4 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi bổ sung như sau Nếu Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “ thì tuỳ trường hợp mà có thể bị phạt tiền đến mười lần trị giá hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính”, thì khoản 4 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không được quá năm mươi triệu và cũng không được quá mười lần trị giá hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính. Nếu Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 4 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Vì vậy, nếu người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 4 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. 5. TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ LÀ LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM, THUỐC CHỮA BỆNH, THUỐC PHÒNG BỆNH Điều 157. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh 1. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm a Có tổ chức; b Có tính chất chuyên nghiệp; c Tái phạm nguy hiểm; d Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; đ Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; e Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm. 4. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định Nghĩa Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh là hành vi làm ra, mua bán lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh không phải là thật. Đây là tội phạm được tách từ tình tiết là yếu tố định khung hình phạt của tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985. Do yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, đồng thời để thuận lợi cho việc áp dụng, nên nhà làm luật đã tách hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh để quy định thành tội danh độc lập, so với tội sản xuất, buôn bán hàng giả thông thường thì tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh có mức hình phạt trong từng khung hình phạt nặng hơn. Các dấu hiệu là yếu tố cấu thành tội phạm này cũng tương tự như các dấu hiệu là yếu tố cấu thành tội phạm của tội sản xuất, buôn bán hàng giả quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự, sự khác nhau cơ bản giữa hai tội phạm này là đối tượng phạm tội. Nếu ở Điều 156 Bộ luật hình sự đối tượng của tội phạm là hàng giả thông thường, thì đối tượng phạm tội ở Điều 157 Bộ luật hình sự là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh. Tuy nhiên, để bạn đọc tiện theo dõi có hệ thống, chúng tôi vẫn lần lượt giới thiệu các yếu tố cấu thành tội phạm và những dấu hiệu riêng của tội phạm này. Ngoài những dấu hiệu khác với Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985 như đã giới thiệu trong tội sản xuất, buôn bán hàng giả, thì tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh còn có những điểm khác với Điều 167 Bộ luật hình sự, những dấu hiệu đó chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu dưới đây. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Như đã giới thiệu ở trên, so với tội sản xuất, buôn bán hàng giả quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự, thì các dấu hiệu cấu thành tội phạm này có nhiều thay đổi theo hướng không có lợi cho người phạm tội. Nói chung, các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội phạm này lại được quy định tương tự như Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, không quy định tình tiết là dấu hiệu để phân biệt hành phạm tội với hành vi vi phạm, giữa tội phạm này với một số tội phạm khác như khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự. 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Cũng như đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả quy định Điều 156 Bộ luật hình sự, chủ thể của tội phạm này cũng không có gì đặc biệt, chỉ cần người có năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật là có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 1 của điều luật, chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của điều luật, vì khoản 1 của điều luật là tội phạm nghiêm trọng, còn khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của điều luật là tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc sản xuất, buôn bán hàng hoá, chống hàng giả. Đối tượng tác động của tội phạm này là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh không phải là thật hàng giả. Việc xác định thế nào là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả cũng tương tự như việc xác định hàng giả quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự. Xem đối tượng tác động của tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Đối tượng tác động của tội phạm này là dấu hiệu đặc trưng cơ bản đẻ phân biệt giữa tội phạm này với tội sản xuất, buôn bán hàng giả quy định tại Điều 156 và tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi quy định tại Điều 158 Bộ luật hình sự. Đối tượng tác động của tội phạm này có nhiều loại hàng hoá khác nhau, đó là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả. Vì vậy, khi định tội cần chú ý - Nếu người phạm tội sản xuất, buôn bán loại hàng hoá nào thì định tội theo loại hàng hoá đó. Ví dụ Một người sản xuất thực phẩm giả thì chỉ định tội là sản xuất lương thực giả, mà không định tội là “sản xuất lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả”. - Nếu người phạm tội sản xuất, buôn bán nhiều loại hàng giả khác nhau thì định tội theo nhiều loại hàng hoá đó. Ví dụ Một người sản xuất thực phẩm giả và thực phẩm giả thì chỉ định tội là sản xuất lương thực và thực phẩm giả. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Do tội phạm này được tách ra từ tội sản xuất, buôn bán hàng giả mà dấu hiệu khác nhau duy nhất là đối tượng tác động, nên hành vi khách quan của tội phạm này hoàn toàn tương tự với hành vi khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự, đó là sản xuất và buôn bán. Vì vậy, khi định tội tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội thực hiện hành vi nào thì định tội theo hành vi đó, mà không định tội hết tất cả hai hành vi được liệt kê trong điều luật. Ví dụ Một người chỉ thực hiện hành vi sản xuất thì chỉ định tội là “sản xuất...”, mà không định tội là “sản xuất, buôn bán...”. Nếu người phạm tội thực hiện cả hai hành vi cùng một đối tượng phạm tội thì định tội là “sản xuất và buôn bán...” Các trường hợp trên, Toà án chỉ áp dụng một mức hình phạt. Nếu người phạm tội thực hiện hai hành vi khác nhau đối với hai đối tượng phạm tội khác nhau thì định tội như sau Ví dụ Một người sản xuất 500 kilôgam bột mỳ giả và buôn bán viên thuốc chữa bệnh giả, thì người này phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội tội “sản xuất lương thực giả” và tội “buôn bán thuốc chữa bệnh giả” Toà án quyết định hình phạt riêng đối với từng tội và áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Việc xác định thế nào là sản xuất và buôn bán lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả hoàn toàn giống như trường hợp xác định sản xuất và buôn bán hàng giả quy định tại Điều 165 Bộ luật hình sự. Xem hành vi khách quan của tội làm hàng giả b. Hậu quả Hậu quả của hành vi sản xuất, buôn bán lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ... hậu qủa trực tiếp của hành vi sản xuất và buôn bán lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả là xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp, gây thiệt hại đến lợi ích vật chất, uy tín của doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hoá bị người phạm tội sản xuất hoặc buôn bán hàng giả. Đối với tội sản xuất, buôn bán lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả hậu quả không là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu là hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì hậu quả này là yếu tố định khung hình phạt theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật. Ngoài hành vi khách quan, đối với tội sản xuất, buôn bán lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả, nhà làm luật không quy định một dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu băt buộc của cấu thành tội phạm. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả là do cố ý cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi sản xuất sản xuất lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả hoặc biết rõ là sản xuất lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả nhưng vẫn buôn bán; thấy trước được hậu quả của của hành vi và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ, mục đích của người phạm tội tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng việc xác định mục đích của người phạm tội có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. Nói chung, người phạm tội sản xuất hoặc buôn bán sản xuất lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả bao giờ cũng vì lợi nhuận thu lợi bất chính. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội sản xuất, buôn bán lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội sản xuất, buôn bán lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả, người phạm tội có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. So với tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt, thì khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn và nếu so sánh giữa Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nặng hơn. Tuy nhiên, hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh lại được quy định tại khoản 2 Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ năm năm đến mười lăm năm tù. Do đó phải coi khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định có lợi cho người phạm tội, nên hành vi phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội, mà không áp dụng khoản 2 Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985. Khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là năm năm tù, nên đối với người khi thực hiện tội phạm thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự là người dưới 16 tuổi thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội buôn lậu theo khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội chỉ có một hành vi quy định tại điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tù dưới hai năm tù; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể thì có thể phạt tới bảy năm tù. 2. Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 157 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự xem chú thích số 6. Cũng như đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, khi áp dụng trường hợp phạm tội có tổ chức đối với tội phạm này cần chú ý Nếu một người thực hiện cả hai hành vi quy định trong điều luật với cùng một đối tượng phạm tội, nhưng trong đó chỉ có một hành vi là phạm tội có tổ chức, thì người phạm tội vẫn bị áp dụng điểm a khoản 2 của điều luật. Nếu một người thực hiện cả hai hành vi quy định trong điều luật nhưng đối với nhiều đối tượng phạm tội khác nhau, nhưng trong đó chỉ có một hành vi phạm tội có tổ chức, còn hành vi khác không có tổ chức, thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi có tổ chức, còn các hành vi khác tuỳ trường hợp cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự họ theo điều khoản tương ứng và bị tổng hợp hình phạt theo Điều 50 Bộ luật hình sự. b. Có tính chất chuyên nghiệp Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm tội chủ yếu lấy việc sản xuất hoặc buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh là nguồn sống chính của bản thân và gia đình mình và hành vi đó được lặp đi lặp lại nhiều lần. Nếu người phạm tội lấy việc phạm tội là nguồn sống chính, nhưng mới phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh một lần dù với quy mô như thế nào thì cũng không thuộc trường hợp có tính chất chuyên nghiệp. c. Tái phạm nguy hiểm. Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự và bất kỳ trường hợp tái phạm nguy hiểm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi - Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 157 Bộ luật hình sự, nếu chỉ phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự thì chưa thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, vì khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, nếu người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm này thì đồng thời đã thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 của Điều 157 nên việc xác định tình tiết tái phạm nguy hiểm chỉ có ý nghĩa là tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự chứ không có ý nghĩa xác định điều khoản của Điều 157 Bộ luật hình sự. - Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả không phân biệt phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của Điều 157 Bộ luật hình sự. d. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn Cũng như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh. Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Nếu những người này, lợi dụng chức vụ để sản xuất, buôn bán hàng giả, thì mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội. Nếu có chức vụ, nhưng lại không lợi dụng chức vụ để sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thì không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 157 Bộ luật hình sự. Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông thường là người có chức vụ, nhưng cũng có thể là người không có chức vụ nhưng được giao hoặc được thạm gia thực hiện một công vụ. đ. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội khác, lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là người phạm tội thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh. e. Gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Trường hợp phạm tội này cũng như các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng khác, do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả gây ra, nên chúng ta có thể tham khảo trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 157 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 2 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh theo khoản 2 Điều 157 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới 5 năm tù. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười hai năm tù. 3. Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều Khoản 3 Điều 157 Bộ luật hình sự chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là gây hậu quả rất nghiêm trọng. Cũng như trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh gây hậu quả rất nghiêm trọng là những thiệt hại rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Trường hợp phạm tội này cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả gây ra, nên chúng ta có thể tham khảo trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 157 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm tù, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 3 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 3 Điều 167, nhưng vì Điều 167 không quy định khoản 4 và khoản 3 của Điều 167 là trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh gây hậu quả rất nghiêm trọng thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 3 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh theo khoản 3 Điều 157 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới 12 năm tù, nhưng không được dưới 5 năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến hai mươi năm tù. 4. Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 157 Bộ luật hình sự Khoản 4 Điều 157 Bộ luật hình sự cũng chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Cũng như trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng trong một số tội phạm, phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là do sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh mà gây ra những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại khác cho xã hội. Do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh gây ra, nên chúng ta có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự về trường hợp “gây hậu quả đặc bệt nghiêm trọng”. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 157 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ hai mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Do Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định khoản 4 và khoản 3 của Điều 167 cũng chỉ quy định trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, nên có thể coi khoản 4 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1999 tương tự như khoản 3 Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, và nếu so sánh thì chúng ta thấy khoản 4 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999 năng hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 3 Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo khoản 4 Điều 157 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới hai mươi năm tù, nhưng không được dưới mười hai năm, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 4 là khoản 3 Điều 157 Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt tử hình. 5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, thì hình phạt bổ sung đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh quy định tại khoản 5 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi bổ sung như sau - Nếu Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “thì tuỳ trường hợp mà có thể bị phạt tiền đến mười lần trị giá hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính”, thì khoản 5 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không được quá năm mươi triệu và cũng không được quá mười lần trị giá hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính. - Nếu Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 5 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Vì vậy, nếu người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 5 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. 6. TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ LÀ THỨC ĂN DÙNG ĐỂ CHĂN NUÔI, PHÂN BÓN, THUỐC THÚ Y, THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT, GIỐNG CÂY TRỒNG, VẬT NUÔI Điều 158. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi 1. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi với số lượng lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 154, 155, 156, 157, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm a Có tổ chức; b Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; d Hàng giả có số lượng rất lớn; đ Tái phạm nguy hiểm; e Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 3. Phạm tội trong trường hợp hàng giả có số lượng đặc biệt lớn hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định Nghĩa Sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi không phải là thật. Đây cũng là tội phạm được tách từ tình tiết là yếu tố định khung hình phạt của tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985. Do yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, đồng thời để thuận lợi cho việc áp dụng, nên nhà làm luật đã tách hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi để quy định thành tội danh độc lập. Tuy nhiên, Điều 167 mới quy định hàng giả là phân bón, thuốc trừ sâu, chứ chưa quy định hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi. Mặc dù tách ra thành tội phạm riêng, nhưng so với tội sản xuất, buôn bán hàng giả thông thường thì tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi được cấu tạo tương tự như tội làm hàng giả quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự. Các dấu hiệu là yếu tố cấu thành tội phạm này cũng tương tự như các dấu hiệu là yếu tố cấu thành tội phạm của tội sản xuất, buôn bán hàng giả quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự, sự khác nhau cơ bản giữa hai tội phạm này là đối tượng phạm tội. Nếu ở Điều 156 Bộ luật hình sự đối tượng của tội phạm là hàng giả thông thường, thì đối tượng phạm tội ở Điều 158 Bộ luật hình sự là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi. Các tình tiết là yếu tố định tội cũng được quy định tương tự như tội làm hàng giả thông thường. Tuy nhiên, để bạn đọc tiện theo dõi có hệ thống, chúng tôi vẫn lần lượt giới thiệu các yếu tố cấu thành tội phạm và những dấu hiệu riêng của tội phạm này. So với Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều thay đổi cơ bản, cả về dấu hiệu cấu thành tội phạm cũng như mức hình phạt đều theo hướng có lợi cho người phạm tội - Có tình tiết trước đây chỉ là yếu tố định khung hình phạt nay nhà làm luật không quy định nữa như “hàng giả là vật liệu xây dựng”, đồng thời quy định hàng giả là thuốc bảo vệ thực vật thay cho hàng giả là thuốc trừ sâu; bổ sung một số đối tượng phạm tội như “ hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi”. - Nếu Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định, làm hàng giả với bất cứ số lượng bao nhiêu, đều bị coi là tội phạm thì Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định Hàng giả phải có số lượng lớn mới cấu thành tội phạm, nếu số lượng chưa lớn thì phải kèm theo điều kiện là người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 154, 155, 156, 157, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm hoặc đã gây hậu quả nghiêm trọng, thì mới cấu thành tội phạm. - Nếu Điều 167 chỉ quy định thu lợi bất chính lớn, Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm trường hợp thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn là yếu tố định khung hình phạt. - Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng một điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Như đã giới thiệu ở trên, trừ trường hợp tách tình tiết là yếu tố định khung hình phạt thành tội phạm độc lập, thì các dấu hiệu cấu thành tội phạm này có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội, nhà làm luật quy định tình tiết là dấu hiệu để phân biệt hành phạm tội với hành vi vi phạm, giữa tội phạm này với một số tội phạm khác. Các dấu hiệu này đều thuộc mặt khách quan của tội phạm. 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này cũng không có gì đặc biệt, chỉ cần người có năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật là có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 1 của điều luật, chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 2 và khoản 3 của điều luật, vì khoản 1 của điều luật là tội phạm nghiêm trọng, còn khoản 2 và khoản 3 của điều luật là tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu hàng giả chưa có số lượng tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 154, 155, 156, 157, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội phạm. - Đã bị xử phạt hành chính về hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả và đã bị kết án về hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả cũng tương tự như trường hợp đã bị xử phạt hành chính và đã bị kết án về hành vi buôn lậu đã được phân tích ở tội buôn lậu. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc sản xuất, buôn bán hàng hoá, chống hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi. Đối tượng tác động của tội phạm này là là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi không phải là hàng thật hàng giả. Việc xác định thế nào là hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi cũng tương tự như cách xác định hàng giả khác là căn cứ vào Nghị định Số 140-HĐBT ngày 25-4-1991 của Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ quy định về kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả chưa có văn bản nào thay thế văn bản này. Trong những trường hợp cần thiét các cơ quan tiến hành tố tụng cần trừng cầu giám định để xác định hàng đó có phải là hàng giả hay không. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Cũng tương tự như hành vi khách quan của tội làm hàng giả quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự, điều luật quy định hai hành vi khách quan khác nhau, đó là sản xuất và buôn bán. Vì vậy, khi định tội tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội thực hiện hành vi nào thì định tội theo hành vi đó, mà không định tội hết tất cả hai hành vi được liệt kê trong điều luật. Ví dụ Một người chỉ thực hiện hành vi sản xuất hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi thì chỉ định tội là “sản xuất hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi”, mà không định tội là “sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi”. Nếu người phạm tội thực hiện cả hai hành vi cùng một đối tượng phạm tội thì định tội là “sản xuất và buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi” Các trường hợp trên, Toà án chỉ áp dụng một mức hình phạt. Nếu người phạm tội thực hiện hai hành vi khác nhau đối với hai đối tượng phạm tội khác nhau thì định tội như sau Ví dụ Một người sản xuất 5000 kilôgam bột thức ăn gia súc giả và buôn bán thuốc trừ sâu giả, thì người này phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội tội “sản xuất hàng giả là thức ăn gia súc” và tội “buôn bán thuốc thú y giả” Toà án quyết định hình phạt riêng đối với từng tội và áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Việc xác định thế nào là sản xuất và buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi hoàn toàn giống như trường hợp xác định sản xuất và buôn bán hàng giả quy định tại Điều 165 Bộ luật hình sự. Xem hành vi khách quan của tội làm hàng giả b. Hậu quả Hậu quả của hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ... hậu qủa trực tiếp của hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi là xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp, gây thiệt hại đến lợi ích vật chất, uy tín của doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hoá bị người phạm tội sản xuất hoặc buôn bán các loại hàng hoá thật. Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm trong trường hợp hàng giả chưa có số lượng lớn. Nếu là hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì hậu quả này là yếu tố định khung hình phạt theo khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật. Ngoài hành vi khách quan, đối với tội sản xuất, buôn bán àng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi, nhà làm luật không quy định một dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu băt buộc của cấu thành tội phạm. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi là do cố ý cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi sản xuất hàng giả hoặc biết rõ là hàng giả nhưng vẫn buôn bán; thấy trước được hậu quả của của hành vi và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ, mục đích của người phạm tội tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng việc xác định mục đích của người phạm tội có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. Nói chung, người phạm tội sản xuất hoặc buôn bán hàng giả bao giờ cũng vì lợi nhuận thu lợi bất chính. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 158 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội sản xuất, buôn bán hàng giả, người phạm tội có thể bị phạt tù một năm đến năm năm. So với tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, và nếu so sánh giữa Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khoản 1 Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là năm năm tù, nên đối với người khi thực hiện tội phạm thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 158 Bộ luật hình sự là người dưới 16 tuổi thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 158 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội chỉ có một hành vi quy định tại điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tù dưới một năm tù; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể thì có thể phạt tới năm năm tù. 2. Sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 158 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Cũng như đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả khác, khi áp dụng trường hợp phạm tội có tổ chức đối với tội phạm này cần chú ý Nếu một người thực hiện cả hai hành vi quy định trong điều luật với cùng một đối tượng phạm tội, nhưng trong đó chỉ có một hành vi là phạm tội có tổ chức, thì người phạm tội vẫn bị áp dụng điểm a khoản 2 của điều luật. Nếu một người thực hiện cả hai hành vi quy định trong điều luật nhưng đối với nhiều đối tượng phạm tội khác nhau, nhưng trong đó chỉ có một hành vi phạm tội có tổ chức, còn hành vi khác không có tổ chức, thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi có tổ chức, còn các hành vi khác tuỳ trường hợp cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự họ theo điều khoản tương ứng và bị tổng hợp hình phạt theo Điều 50 Bộ luật hình sự. b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn Cũng như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi, là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để sản xuất, buôn bán các loại hàng giả trên. Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Nếu những người này, lợi dụng chức vụ để sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi, thì mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội. Nếu có chức vụ, nhưng lại không lợi dụng chức vụ để sản xuất, buôn bán các loại hàng giả này, thì không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 158 Bộ luật hình sự. Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông thường là người có chức vụ, nhưng cũng có thể là người không có chức vụ nhưng được giao hoặc được thạm gia thực hiện một công vụ. c. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn đối với hành vi phạm tội khác, lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi là thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để sản xuất, buôn bán các loại hàng giả trên. xem thêm trường hợp phạm tội này ở các tội đã phân tich ở trên d. Hàng giả có số lượng rất lớn Nếu ở tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh nhà làm luật không quy định trường tình tiết “hàng giả có số lượng lớn” là yếu tố định khung hình phạt thì đối với tội làm hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi nhà làm luật lại quy định tình tiết này là yếu tố định khung hình phạt. Đây lại là vấn đề có liên quan đến kỹ thuật lập pháp; nếu nhà làm luật cũng cấu tạo tương tựng như Điều 157 thì tình tiết này không cần thiết phải coi là yếu tố định khung hình phạt hoặc nếu muốn coi là tình tiết định khung hình phạt thì nên cấu tạo như Điều 156 “hàng giả tương đương với số lượng hàng thật”. thì việc áp dụng sẽ dễ dàng hơn. Để đơn gián hoá trong việc áp dụng pháp luật chúng tôi cho rằng nếu coi tình tiết này là yếu tố định khung hình phạt đối với tội phạm này thì nên quy định như trường hợp điểm e khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự “hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng” hoặc giải thích trường hợp phạm tội này như trường hợp phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm có số lượng lớn quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự. đ. Tái phạm nguy hiểm. Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự và bất kỳ trường hợp tái phạm nguy hiểm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi - Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội sản xuất, buôn bán hàng cấm thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 158 Bộ luật hình sự, nếu chỉ phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 158 Bộ luật hình sự thì chưa thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, vì khoản 1 Điều 158 Bộ luật hình sự không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. - Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả không phân biệt phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của Điều 158 Bộ luật hình sự. e. Gây hậu quả rất nghiêm trọng. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi gây ra là những thiệt hại rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Trường hợp phạm tội này cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi gây ra, nên chúng ta có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 158 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 2 Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo khoản 2 Điều 158 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới 3 năm tù, nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. Tuy nhiên, việc cho người phạm tội hưởng án treo trong trường hợp này cần hết sức chặt chẽ vì tội phạm mà họ thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù. 3. Sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 158 Bộ luật hình sự Khoản 3 của điều luật cũng quy định hai trường hợp phạm tội, nhưng không cấu tạo như các khoản khác có điểm a, b... mà quy định chung. Đó là “hàng giả có số lượng đặc biệt lớn” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” a. Hàng giả có số lượng đặc biệt lớn Trường hợp phạm tội này cũng tương tự với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ Hàng giả có số lượng đặc biệt lớn. Việc xác định hàng giả có số lượng đặc biệt lớn cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 điều luật, chúng tôi đã phân tích và nhưng chưa có giải thích hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, khi xác định hàng giả là đối tượng của tội phạm này có số lượng đặc biệt lớn cần phải có hướng dẫn cụ thể của các cơ quan có chức nặng. b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng Cũng như trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là do sản xuất, buôn bán các loại hàng giả này mà gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Trường hợp phạm tội này cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi gây ra, nên chúng ta có thể tham khảo trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 158 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt thì khoản 3 Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 3 Điều 167. Vì vậy, đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 3 Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi theo khoản 3 Điều 158 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt dưới 7 năm tù, nhưng không được dưới 3 năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến hai mười lăm năm tù. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả thức ăn dùng để chăn nuôi, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi hoàn toàn giống như hình phạt bổ sung đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh quy định tạ Điều 157 Bộ luật hình sự xem hình phạt bổ sung của tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh. 7. TỘI KINH DOANH TRÁI PHÉP Điều 159. Tội kinh doanh trái phép 1. Người nào kinh doanh không có đăng ký kinh doanh, kinh doanh không đúng với nội dung đã đăng ký hoặc kinh doanh không có giấy phép riêng trong trường hợp pháp luật quy định phải có giấy phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm a Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 160, 161, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm; b Hàng phạm pháp có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm a Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; b Mạo nhận một tổ chức không có thật; c Hàng phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên; d Thu lợi bất chính lớn. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. Định nghĩa Kinh doanh trái phép là kinh doanh không có đăng ký kinh doanh, kinh doanh không đúng với nội dung đã đăng ký hoặc kinh doanh không có giấy phép riêng trong trường hợp pháp luật quy định phải có giấy phép. Tội kinh doanh trái phép là tội phạm đã được quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Điều 168 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 159 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung theo hướng có lợi cho người phạm tội, ngoài việc sửa đổi, bổ sung một vài thuật ngữ như “đăng ký kinh doanh” thay cho thuật “giấy phép”; bổ sung trường hợp “kinh doanh không có giấy phép riêng trong trường hợp pháp luật quy định phải có giấy phép”; bổ sung tình tiết “hàng phạm pháp có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng” là yếu tố định tội và cũng là dấu hiệu để phân biệt giữa hành vi vi phạm với hành vi bị coi là tội phạm. Cấu tạo lại điều luật cho dễ áp dụng, đồng thời bổ sung tình tiết là yếu tố định khung hình phạt; Mức hình phạt trong từng khung hình phạt cũng nhẹ hơn nhiều so với Điều 168 Bộ luật hình sự năm 1985; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng một điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này cũng không có gì đặc biệt, chỉ cần người có năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật là có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này; chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì cả khoản 1 và khoản 2 của điều luật đều là tội phạm ít nghiêm trọng. Nếu hàng phạm pháp có giá trị dưới một trăm triệu đồng, thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi kinh doanh trái phép hoặc đã bị kết án về tội kinh doanh trái phép hoặc về một tội quy định tại các điều 153, 154, 156, 157, 158, 160, 161, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 283 của Bộ luật hình sự, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội kinh doanh trái phép. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc kinh doanh. Đối tượng tác động của tội phạm này tương đối rộng. Nếu là hàng hoá, vật phẩm, thì ngoài đối tượng của các tội được quy định tại các Điều 153, 154, 156, 157, 158, 160, 161, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 283 thì đều là đối tượng của tội kinh doanh trái phép. Ngoài hàng hoá, đối tượng tác động của tội phạm này còn bao gồm các dịch vụ khác, nhưng không phải là hàng hoá như Các hoạt động kinh doanh nhà hàng, khách sạn, vũ trường, các trung tâm thể thao, văn hoá... 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Nếu nói một cách khái quát, thì người phạm tội kinh doanh trái phép chỉ thực hiện một hành vi khách quan, đó là hành vi kinh doanh trái phép, nhưng hành vi kinh doanh trái phép lại được người phạm tội thực hiện bởi nhiều thủ đoạn khác nhau như Kinh doanh không có đăng ký kinh doanh, kinh doanh không đúng với nội dung đã đăng ký hoặc kinh doanh không có giấy phép riêng trong trường hợp pháp luật quy định phải có giấy phép. Kinh doanh không có đăng ký kinh doanh là trường hợp kinh doanh không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép, người kinh doanh không đăng ký với các các quan có thẩm quyền, tránh sự kiểm soạt của Nhà nước về hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, các cơ quan chức năng đã bỏ rất nhiều giấy phép kinh doanh, người kinh doanh không cần xin phép, nhưng như thế không có nghĩa là không cần đăng ký với cơ quan có thẩm quyền. Không có đăng ký và không có giấy phép là hai phạm trù khác nhau. Điều 168 Bộ luật hình sự năm 1985 dùng thuật ngữ “kinh doanh không có giấy phép hoặc không đúng nội dung được phép”, cũng có nghĩa là mọi trường hợp kinh doanh đều phải có giấy phép do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp, nếu không có giấy phép là đều bị coi là kinh doanh trái phép. Nay nhà làm luật dùng thuật ngữ “kinh doanh không có đăng ký kinh doanh” có nghĩa là có nhiều trường hợp kinh doanh không cần có giấy phép mà chỉ cần đăng ký kinh doanh với cơ quan có thẩm quyền là được coi là đúng phép. Kinh doanh không đúng với nội dung đã đăng ký là trường hợp hoạt động kinh doanh không đúng với nội dung đã đăng ký bao gồm cả trường hợp có giấy phép hoặc không có giấy phép. Ví dụ Người kinh doanh chỉ đăng ký kinh doanh quần áo, nhưng lại kinh doanh các mặt hàng khác ngoài quần áo. Tuy nhiên, nếu hành vi kinh doanh không đúng với nội dung đã đăng ký lại cấu thành một tội phạm khác thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội phạm tương ứng mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội kinh doanh trái phép nữa. Ví dụ Một người đăng ký kinh doanh khách sạn, nhưng lại lợi dụng việc kinh doanh này để chứa mại dâm thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa mại dâm. Kinh doanh không có giấy phép riêng trong trường hợp pháp luật quy định phải có giấy phép là trường hợp theo quy định của pháp luật thì loại hoạt động kinh doanh này phải xin phép và phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép giấy phép kinh doanh , nhưng người phạm tội đã không xin phép hoặc tuy có xin, nhưng cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không cấp hoặc chưa cấp mà vẫn hoạt động kinh doanh. Ví dụ Một người xin kinh doanh nhà hàng Caraoke, đã làm các thủ tục để xin cấp giấy phép kinh doanh, nhưng chưa được phê duyệt đã hoạt động kinh doanh, cơ quan chức năng đã kiểm tra phạt hành chính, nhưng vẫn tái phạm. b. Hậu quả Hậu quả của tội phạm này không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành và cũng không là yếu tố định khung hình phạt, nhưng không vì thế mà cho rằng hành vi kinh doanh trái phép không gây ra hậu quả gì cho xã hội. Tuy nhiên, nếu hành vi kinh doanh trái phép gây ra những hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp mà xác định tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để quyết định hình phạt hoặc người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng với hành vi kinh doanh trái phép gây ra hậu quả đó. Ví dụ Một người do kinh doanh xăng dầu, do không có những biện pháp an toàn cần thiết nên để cây xăng bốc cháy gây thiệt hại đặc nghiêm trọng đến tài sản của người khác thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản theo Điều 145 Bộ luật hình sự. c. Các dấu hiệu khách quan khác của cấu thành tội phạm Ngoài hành vi khách, nhà làm luật quy định một số tình tiết là dấu hiệu khách như Hàng phạm pháp có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng. Đây là giới hạn của để phân biệt hành vi phạm tội với hành vi vi phạm, mà Điều 168 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Nếu hành vi kinh doanh trái phép mà hàng phạm pháp chưa đến một trăm triệu đồng, thì phải kèm theo dấu hiệu về chủ thể thì mới bị coi là tội phạm. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi kinh doanh trái phép là do cố ý cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi kinh doanh trái phép nhưng vẫn kinh doanh; thấy trước được hậu quả của của hành vi và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ, mục đích của người phạm tội tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng việc xác định động cơ, mục đích của người phạm tội có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. Nói chung, người phạm tội kinh doanh trái phép bao giờ cũng vì lợi nhuận thu lợi bất chính. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội kinh doanh trái phép không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 159 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội sản xuất, buôn bán hàng giả, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Đây là một trong số rất ít trường hợp nhà làm luật không quy định hình phạt tù; điều này cho thấy, đối với người kinh doanh trái phép, chủ yếu xử lý bằng biện pháp giáo dục hoặc xử lý hành chính, chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp cần thiết. So với tội kinh doanh trái phép quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 159 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, có nhiều quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội, và nếu so sánh giữa Điều 159 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 168 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 159 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội kinh doanh trái phép được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 159 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 159 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền; Toà án chỉ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể. 2. Kinh doanh trái phép thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 159 Bộ luật hình sự a. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn đối với hành vi phạm tội khác, lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để kinh doanh trái phép là thủ đoạn thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để kinh doanh trái phép. xem thêm trường hợp phạm tội này ở các tội đã phân tích ở trên b. Mạo nhận một tổ chức không có thật Mạo nhận một tổ chức không có thật để kinh doanh trái phép là trường hợp người phạm tội đã nhân danh một tổ chức không có thật để hoạt động kinh doanh nhằm lừa dối người khác. Ví dụ Đặng Kim H là Việt kiều từ Canada về nước, tự giới thiệu là Giám đốc Công ty Kolysa có trụ sở tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh để ký kết hợp đồng mua gom hạt Điều của nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Khi H vận chuyển 50 tấn hạt Điều từ Bà Rịa – Vũng Tàu về thành phố Hồ Chí Minh thì bị bắt. Cơ quan điều tra đã xác minh thì thấy không có công ty naoc có tên là Kolysa ở quận 5 thành phố Hồ Chí Minh cả. Khi xác định tình tiết phạm tội này cần phân biệt với trường hợp mạo nhận một tổ chức không có thật để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nếu người phạm tội mạo nhận một tổ chức ko có thật và dùng thủ đoạn ký hợp đồng mua bán rồi chiếm đoạt tài sản của người khác thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; nếu việc mua bán là có thật, không ai bị chiếm đoạt còn người phạm tội chỉ mạo nhận một tổ chức không có thật để kinh doanh trái phép thì thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 159 Bộ luật hình sự. c. Hàng phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên Trường hợp phạm tội này xác định không khó, chỉ cằn căn cứ vào giá trị hàng phạm pháp mà người phạm tội kinh doanh trái phép. Nếu hàng phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 2 Điều 159 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, giá trị hàng phạm pháp là theo giá thị trường ở nơi mà người phạm tội thực thiện hành vi kinh doanh trái phép và vào thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi kinh doanh trái phép, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm khi người phạm tội thực hiẹn hành vi nguy hiểm cho xã hội. d. Thu lợi bất chính lớn. Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp thu lợi bất chính lớn đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả quy định tại điểm g khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự Thu lợi bất chính lớn là số tiền lời mà người phạm tội thu được do hành vi kinh doanh trái phép. Số tiền thu lợi bất chính là hiệu số của giá trị tiền vốn mà người phạm tội bỏ ra để kinh doanh với số tiền thu được mà người phạm tội thu được. Ví dụ Một người bỏ ra 500 triệu để kinh doanh và thu về được 600 triệu, thì số tiền thu lợi bất chính là 100 triệu đồng - = Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính lớn nếu người phạm tội buôn lậu thu lợi bất chính từ đồng đến dưới đồng. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 159 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt từ ba tháng đén hai năm tù, cũng là tội phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 159 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội kinh doanh trái phép trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 2 Điều 159 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội kinh doanh trái phép theo khoản 2 Điều 159 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội; chỉ áp dụng hình phạt tù trong trường hợp người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì cho người phạm tội được hưởng án treo. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 3 Điều 159 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều thay đổi, chỉ quy định một loại hình phạt tiền từ ba triệu đến ba mươi triệu, còn Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ba loại hình phạt “có thể bị phạt tiền đến mười lần giá trị hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính; có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản và có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc những công việc nhất định từ hai năm đến năm năm”. Vì vậy, người phạm tội kinh doanh trái phép trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xét xử thì áp dụng khoản 3 Điều 159 Bộ luật hình sự năm 1999. Nếu áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, thì không được quá mười lần giá trị hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính và không được trên 30 triệu đồng. 8. TỘI ĐẦU CƠ Điều 160. Tội đầu cơ 1. Người nào lợi dụng tình hình khan hiếm hoặc tạo ra sự khan hiếm giả tạo trong tình hình thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh mua vét hàng hoá có số lượng lớn nhằm bán lại thu lợi bất chính gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm a Có tổ chức; b Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; d Hàng đầu cơ có số lượng rất lớn; đ Thu lợi bất chính rất lớn; e Gây hậu quả rất nghiêm trọng; g Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm a Hàng đầu cơ có số lượng đặc biệt lớn; b Thu lợi bất chính đặc biệt lớn; c Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định Nghĩa Đầu cơ là lợi dụng tình hình khan hiếm hoặc tạo ra sự khan hiếm giả tạo trong tình hình thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh mua vét hàng hoá nhằm bán lại thu lợi. Đầu cơ được coi là tội phạm và được quy định khá sớm, nhất là trong nền kinh tế bao cấp, đầu cơ gây là tội phạm đã được quy định tại Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1985. Hành vi đầu cơ xảy ra khá phổ biến trong một nến kinh tế bao cấp và trong một số hoàn cảnh cụ thể hành vi này cũng xảy ra trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, hành vi đầu cơ ít bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhất là trong điều kiện một nền kinh tế thị trường. Cũng chính vì thế, khi soạn thảo Bộ luật hình sự năm 1999 đã có nhiều ý kiến cho rằng không nên quy định hành vi đầu cơ là hành vi phạm tội. Quan điểm này đã không được chấp nhận, vì ở nước ta tình hình kinh tế-xã hội còn diễn biến phức tạp, cộng với hàng năm thiên tai luôn hoành hành gây thiệt hại nghiêm trọng đến nền kinh tế và hành vi đầu cơ vẫn bị coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội và cần xử lý bằng biện pháp hình sự. Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội, so với Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội đầu cơ có nhiều thay đổi. Nếu trước đây, mọi hành vi đầu cơ, bất cứ trong hoàn cảnh nào, với số lượng hàng phạm pháp bao nhiêu đều bị coi là tội phạm, thì hiện nay chỉ những hành vi đầu cơ trong tình hình thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh và phải đầu cơ với lượng hàng hoá có số lượng lớn và hành vi này phải gây hậu quả nghiêm trọng thì mới bị coi là tội phạm. Các tình tiết là yếu tố định tội, định khung hình phạt đều theo hướng có lợi cho người phạm tội, hình phạt đối với tội phạm này cũng quy định nhẹ hơn nhiều so với Bộ luật hình sự năm 1985. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Như đã giới thiệu ở trên, các dấu hiệu cấu thành tội phạm này có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội, nhà làm luật quy định tình tiết là dấu hiệu để phân biệt hành phạm tội với hành vi vi phạm. Các dấu hiệu này đều thuộc mặt khách quan của tội phạm. 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này cũng không có gì đặc biệt, chỉ cần người có năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật là có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 1 của điều luật, chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 2 và khoản 3 của điều luật, vì khoản 1 của điều luật là tội phạm nghiêm trọng, còn khoản 2 và khoản 3 của điều luật là tội phạm rất nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc lưu thông hàng hoá, chống đầu cơ trục lợi. Đối tượng tác động của tội phạm này là hàng hoá nói chung, trừ những hàng hoá vật phẩm là đối tượng tác động của các tội phạm khác đã được quy định thành tội phạm riêng. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Quan niệm truyền thống và cũng phù hợp với bản chất của tội đầu cơ là hành vi “mua vét”. Nhà làm luật sử dụng thuật ngữ mua vét là khái quát một cách đầy đủ bản chất của hành vi đầu cơ. Tuy nhiên, hiểu một cách dầy đủ bản chất của hành vi này không phải bao giờ cũng dễ dàng và không phải ai cũng nhận thức như nhau. Mua vét là một từ gép giữa từ “mua” và từ “vét”. Mua là dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vất chất khác để trao đổi lấy hàng hoá, còn vét là vơ vét, thấy ở đâu có là mua, mua bằng hết. Tuy nhiên, hành vi mua vét trong tội đầu cơ không đòi hỏi phải mua bằng hết hàng hoá ở một địa bàn, một vùng nhất định mà chỉ cần mua với số lượng lớn để bán lại trục lợi là bị coi là đầu cơ rồi. Tuy nhiên, việc mua vét hàng hoá phải xảy ra trong một tình hình khan hiếm loại hàng hoá đó ở địa bàn mà người phạm tội mua vét. Nếu mua vét nhưng mặt hàng đó không khan hiếm thì cũng chưa phải là đầu cơ. Ngoài hành vi mua vét, người phạm tội đầu cơ còn có thể có hành vi “tạo ra sự khan hiếm hàng hoá giả tạo”. Đây là hành vi mà người phạm tội có thể thực hiện hoặc không thực hiện phụ thuộc vào tình hình hàng hoá có khan hiếm thực sự hay không. Nếu tình hình hàng hoá khan hiếm thực sự mà người phạm tội lợi dụng tình hình đó để mua vét hàng hoá thì không cần phải có hành vi “tạo ra sự khan hiếm giả tạo”; hành vi này chỉ xảy ra khi hàng hoá không khan hiếm thật, nhưng mọi người lại tưởng lầm rằng có sự khan hiếm thật. Sự khan hiếm giả toạ này do người phạm tội tạo ra để mọi người tin. Thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để tạo ra sự khan hiếm giả có nhiều như Tung tin thất thiệt về sự khan hiếm hàng hoá; tác động với nhà sản xuất không đưa sản phẩm ra tiêu thụ ở một địa bàn, một vùng nhất định... b. Hậu quả Hậu quả của hành vi đầu cơ là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ... Hậu qủa trực tiếp của hành vi đầu cơ là làm cho giá cả về một hoặc một số mặt hàng nào đó tăng vọt, gây thiệt hại trực tiếp cho người tiêu dùng. Đối với tội đầu cơ hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu là hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì hậu quả này là yếu tố định khung hình phạt theo khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật. Việc xác định thế nào là hậu quả nghiêm trọng do hành vi đầu cơ gây ra cũng là vấn đề phức tạp và chưa có hướng dẫn chính thức, vì vậy có thể tham khảo trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999, để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi đầu cơ gây ra. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội đầu cơ Ngoài hành vi khách quan và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, đối với tội đầu cơ, nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác mà thiếu nó thì chưa cấu thành tội phạm, các dấu hiệu đó là Phải có sự kiện khan hiếm hàng hoá thật hoặc tuy không khan hiếm thật nhưng mọi người lại tưởng lầm là khan hiếm hàng hoá thật; Nơi địa điểm xảy ra hành vi mua vét hàng hoá phải là nơi đang trong tình trạng thiên tai, dịch bệnh hoặc chiến tranh; địa điểm này, có thể là một thôn, một xã, một tỉnh hoặc một vùng... không giới hạn bới địa danh hành chính hay lãnh thổ. Hàng hoá mà người phạm tội mua vét phải có số lượng lớn. Cả ba dấu hiệu trên là dấu hiệu cần và đủ cùng với hành vi khách quan và hậu quả nghiêm trọng thì mới cấu thành tội đầu cơ. Nếu thiếu một trong các dấu hiệu trên thì chưa cấu thành tội đầu cơ. Trong ba dấu hiệu khách quan khác, thì dấu hiệu hàng hoá mà người phạm tội mua vét có số lượng lớn là dấu hiệu khó xác định. Thế nào là mua vét hàng hoá có số lượng lớn ? Đây là vấn đề không chỉ đối với loại tội phạm này mà nhiều tội phạm khác việc xác định vật phạm pháp, hàng phạm pháp có số lượng lớn không đơn giản. Tuy nhiên, đối với tội đầu cơ, việc xác định số lượng hàng hoá mà người phạm tội mua vét với số lượng lớn có thể căn cứ vào lượng hàng hoá đang lưu thông trên thị trường nơi đang có thiên tai, dịch bệnh hoặc chiến tranh so với lượng hàng hoá mà người phạm tội đầu cơ mua vét. Nếu số lượng hàng hoá mà người phạm tội mua vét nhiều hơn lượng hàng hoá đang có bán trên thị trường đó thì bị coi là mua vét hàng hoá với số lượng lớn hoặc tuy hàng hoá mà người phạm tội mua vết chưa nhiều hơn lượng hàng hoá đang có trên thị trường, nhưng với lượng hàng hoá mà người phạm tội mua vét làm cho loại hàng hoá đó trở lên khan hiểm và bị tăng giá thì cũng bị coi là mua vết hàng hoá với số lượng lớn. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi đầu cơ là do cố ý cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là gây ra sự khan hiếm hàng hoá, làm cho hàng hoá tăng giá nhưng vì lợi nhuận nên vẫn mua vét; thấy trước được hậu quả của của hành vi và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ, mục đích của người phạm tội này là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nhằm thu lợi bất chính. Nếu thu lợi bát chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về điều luật của Bộ luật hình sự có khung hình phạt nặng hơn. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội đầu cơ không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 160 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội dầu cơ, người phạm tội có thể bị phat tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. So với tội đầu cơ quy định tại Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, và nếu so sánh giữa Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội đầu cơ được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 160 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền; Toà án chỉ áp dụng hình phạt tù trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. 2. Phạm tội đầu cơ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 160 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, đầu cơ có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. xem phạm tội có tổ chức b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn Cũng như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm các tội khác, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đầu cơ, là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để mua vét hàng hoá nhằm bán lại kiếm lời xem lợi dụng chức vụ, quyền hạn ở các tội phạm đã phân tích ở trên. c. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn đối với hành vi phạm tội khác, lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để đầu cơ là thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để mua vét hàng hoá nhằm bán lại kiếm lời xem thêm trường hợp phạm tội này ở các tội đã phân tich ở trên. d. Hàng đầu cơ có số lượng rất lớn Hàng đầu cơ có số lượng rất lớn là hàng hoá mà người phạm tội mua vét có số lượng rất lớn. Cũng như việc xác định hàng đầu cơ có số lượng lớn, khi xác định hàng đầu cơ có số lượng rất lớn cần căn cứ vào tình hình khan hiếm hàng hoá ở vùng thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh và số lượng loại hàng hoá đó đang được lưu thông trên thị trường để xác định hàng hoá mà người phạm tội mua vét đã có số lượng rất lớn không. đ. Thu lợi bất chính rất lớn. Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp thu lợi bất chính lớn đối với các tội xâm phạm trật quản lý kinh tế khác, thu lợi bất chính rất lớn đối với hành vi đầu cơ là số tiền lời mà người phạm tội thu được do hành vi đầu cơ đem lại. Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính rất lớn, nếu người phạm tội đầu cơ thu lợi bất chính từ đồng đến dưới đồng. e. Gây hậu quả rất nghiêm trọng. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi đầu cơ gây ra là những thiệt hại rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Trường hợp phạm tội này cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi đầu cơ gây ra, nên chúng ta có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 g. Tái phạm nguy hiểm Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự và bất kỳ trường hợp tái phạm nguy hiểm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, phạm tội đầu cơ trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi - Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội đầu cơ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 160 Bộ luật hình sự, nếu chỉ phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 160 Bộ luật hình sự thì chưa thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, vì khoản 1 Điều 160 Bộ luật hình sự không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. - Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội đầu cơ không phân biệt phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của Điều 160 Bộ luật hình sự. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 160 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt từ ba năm đến mười năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội đầu cơ trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 2 Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội đầu cơ theo khoản 2 Điều 160 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới ba năm tù. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười năm tù. 3. Phạm tội đầu cơ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 160 Bộ luật hình sự a. Hàng đầu cơ có số lượng đặc biệt lớn Hàng đầu cơ có số lượng đặc biệt lớn là hàng hoá mà người phạm tội mua vét có số lượng đặc biệt lớn. Cũng như việc xác định hàng đầu cơ có số lượng lớn, rất lớn, khi xác định hàng đầu cơ có số lượng đặc biệt lớn cần căn cứ vào tình hình khan hiếm hàng hoá ở vùng thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh và số lượng loại hàng hoá đó đang được lưu thông trên thị trường để xác định hàng hoá mà người phạm tội mua vét đã có số lượng đặc lớn hay không. b. Thu lợi bất chính đặc biệt lớn Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp thu lợi bất chính đặc biệt lớn đối với các tội xâm phạm trật quản lý kinh tế khác, thu lợi bất chính đặc biệt lớn đối với hành vi đầu cơ là số tiền lời đặc biệt lớn mà người phạm tội thu được do hành vi đầu cơ đem lại. Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính đặc biệt lớn, nếu người phạm tội đầu cơ thu lợi bất chính từ đồng trở lên. c. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đầu cơ gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Trường hợp phạm tội này cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đầu cơ gây ra, nên chúng ta có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, người phạm tội có thể bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm. So với khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì khoản 3 Điều 160 nhẹ hơn, vì vậy hành vi đầu cơ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 3 Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định phạm tội đầu cơ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, còn khoản 3 Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định 3 trường hợp phạm tội cụ thể, không có trường hợp nào quy định phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, vậy có coi ba trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 là tình tiết định khung hình phạt mới không ? Tuy chưa có giải thích chính thức và thực tiễn xét xử tội đầu cơ trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 cũng chưa cần có trường hợp phạm tội đầu cơ nào thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng theo khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự, nhưng theo chúng tôi, Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1985 nên có thể coi tất cả các tình tiết định khung hình phạt trong tất cả các khoản của Điều 160 đầu là quy định có lợi cho người phạm tội nên có thể coi các tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 được coi là phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội đầu cơ theo khoản 3 Điều 160 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới tám năm tù, nhưng không được dưới ba năm tù. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 4 Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều thay đổi như Nếu Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị phạt tiền đến mười lần giá trị hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính; có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản và có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc những công việc nhất định từ hai năm đến năm năm”, còn khoản 4 Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”law Vì vậy, người phạm tội đầu cơ trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xét xử thì áp dụng khoản 4 Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999. Nếu áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, thì không được quá mười lần giá trị hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính và không được trên 30 triệu đồng. 9. TỘI TRỐN THUẾ Điều 161. Tội trốn thuế 1. Người nào trốn thuế với số tiền từ năm mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232,233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm. 2. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 3. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến ba lần số tiền trốn thuế. Định Nghĩa Trốn thuế là không nộp thuế cho Nhà nước theo quy định của pháp luật Tội trốn thuế là tội phạm đã được quy định từ sớm vì hành vi trốn thuế là hành vi xâm phạm đến ngân sách của Nhà nước. Tuy nhiên, chính sách thuế cũng tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội của đất nước và chính sách hình sự đối với hành vi trốn thuế cũng phụ thuộc vào tình hình đó. So với tội trốn thuế quy định tại Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1985, thì tội trốn thuế quy định tại Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều thay đổi như Điều 161 được cấu tạo thành 3 khung hình phạt, nhưng mức hình phạt lại nhẹ hơn nhiều so với Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1985; quy định cụ thể mức tiền thuế mà người phạm tội trốn để thay thay cho thuật ngữ “số lượng lớn, rất lớn”; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này tuy không phải là chủ thể đặc biệt nhưng cũng không phải ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm này, mà chỉ những người theo quy định của pháp luật phải nộp thuế mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Chủ thể của tội phạm này phụ thuộc đối tượng phải nộp các loại thuế cho Nhà nước. Ví dụ Thuế giá trị gia tăng VAT, chỉ những người có đăng ký kinh doanh mới phải nộp loại thuế này, chỉ những người được giao đất nông nghiệp mới phải nộp thuế nông nghiệp, chỉ những đánh bắt thuỷ sản mới phải nộp thuế thuỷ sản. Nếu không có đăng ký kinh doanh mà kinh doanh hoặc kinh doanh không đúng với giáy phép kinh doanh nhằm trốn thuế thì thuộc trường hợp phạm tội kinh doanh trái phép; nếu trốn thuế xuất nhập khẩu nhằm buôn bán hàng hoá qua biên giới thì thuộc trường hợp phạm tội buôn lậu; nếu buôn bán hàng cấm nhằm trốn thuế thì thuộc trường hợp buôn bán hàng Các điều kiện khác về chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với các tội phạm khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này trong bất cứ trường hợp nào, vì cả ba khoản của Điều 161 Bộ luật hình sự không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Nếu số tiền thuế mà người phạm tội trốn chưa tới năm mươi triệu đồng, thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232,233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm hoặc đã tái phạm về tội trốn thuế mới bị coi là phạm tội trốn thuế. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc thu thuế, nộp ngân sách cho Nhà nước. Đối tượng tác động của tội phạm này là số tiền thuế mà lẽ ra người phạm tội phải nộp theo quy định của pháp luật. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là trốn việc nộp thuế theo quy định của pháp luật. Hành vi trốn nộp thuế có thể được biểu hiện khác nhau như Khai bớt doanh thu, khai man hàng hoá, gian lận trong việc hạch toán hoặc có những thủ đoạn gian dối khác để không phải nộp số tiền thuế mà theo pháp luật họ phải nộp. Nếu người phạm tội không có thủ đoạn gian dối để trốn thuế mà chỉ có hành vi chây ỳ không chịu nộp thuế, thì không phải là hành vi trốn thuế mà tuỳ trường hợp người chây ỳ nộp thuế có thể bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật về hành vi chây ỳ việc nộp thuế. Nếu người có nghĩa vụ phải nộp thuế, nhưng trốn tránh việc nộp thuế bằng cách rời khỏi nơi cư trú hoặc bỏ trốn để không phải nộp thuế thì bị coi là trốn thuế. Nếu sau khi đã nộp đủ, nộp đúng số tiền thuế cho Nhà nước, nhưng sau đó lại dùng thủ đoạn gian dối để được hoàn thuế thì hành vi của người phạm tội là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ trong thời gian qua một số doanh nghiệp, cá nhân đã lợi dụng chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng, đã dùng thủ đoạn gian dối làm thủ tục xin hoàn thuế giá trị gia tăng. b. Hậu quả Hậu quả của hành vi trốn thuế là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... Hậu qủa trực tiếp của hành vi trốn thuế là gây thiệt hại cho Nhà nước, làm cho Nhà nước không thu được một khoản ngân sách mà lẽ ra phải thu được. Đối với tội trốn thuế, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Điều này cũng dễ hiểu, bởi hành vi trốn thuế chỉ gâu thiệt hại đến ngân sách Nhà nước còn các thiệt hại khác trên thực tế khó có thể xảy ra. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, nhà làm luật còn quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, đó là số tiền thuế mà người phạm tội trốn phải từ năm mươi triệu đồng trở lên thì hành vi trốn thuế mới cấu thành tội phạm. Nếu trốn thuế với số tiền từ năm triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật, nếu trốn thuế với số tiền từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật, nếu trốn thuế với số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi trốn thuế là do cố ý cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, biết rõ hành vi trốn thuế của mình là làm thiệt hại cho Nhà nước mà vẫn trốn thuế. Động cơ, mục đích của người phạm tội này không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội trốn thuế bao giờ cũng vì động cơ tư lợi, tâm lý của người kinh doanh là càng trốn được nhiều thuế thì càng có lợi. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội trốn thuế không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 161 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội trốn thuế, người phạm tội có thể bị phat tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm. So với tội trốn thuế quy định tại Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, và nếu so sánh giữa Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội trốn thuế được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 161 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền; Toà án chỉ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể. 2. Phạm tội trốn thuế thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 161 Bộ luật hình sự Khoản 2 Điều 161 Bộ luật hình sự quy định hai trường hợp phạm tội nhưng không quy định thành các điểm khác nhau như ở một số tội phạm khác, hai trường hợp đó là Trốn thuế với số tiền từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này. a. Trốn thuế với số tiền từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng Việc xác định trường hợp phạm tội này không khó, chỉ cần căn cứ vào số tiền mà người phạm tội trốn thuế, nếu từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng là người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 161 Bộ luật hình sự. Khi xác định số tiền trốn thuế cần căn cứ vào kết quả xác định của cơ quan thuế hoặc căn cứ vào các hoá đơn nộp thuế cũng như các thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện để trốn thuế. Số tiền trốn thuế được xác định là số tiền người phạm tội có ý định trốn tránh việc nộp thuế khi đã dùng thủ đoạn để khỏi phải nọp só tiền thuế. Việc người phạm tội đã trốn được số tiền có ý định trốn hay chưa không phải là yếu tố bắt buộc. b. Tái phạm về tội này Trường hợp phạm tội này là trường hợp người phạm tội trốn thuế đã bị kết án về tội trốn thuế chưa được xoá án tích mà lại phạm tội trốn thuế. Như vậy, tái phạm về tội trốn thuế có không bao gồm cả trường hợp tái phạm nguy hiểm thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự , vì theo điểm a khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự thì tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc nghiêm trọng do cố ý, mà đối với tội trốn thuế không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặt biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, người phạm tội có thể tái phạm nguy hiểm theo điểm b khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự trong trường hợp đã ái phạm về tội trốn thuế, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội trốn thuế. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 161 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội trốn thuế trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 2 Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội trốn thuế theo khoản 2 Điều 161 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới sáu tháng tù hoặc chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tiền. Nếu người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật hoặc tuy chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, nhưng có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến ba năm tù. 3. Phạm tội trốn thuế thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 161 Bộ luật hình sự Cũng như đối với khoản 2 của điều luật, khoản 3 của điều luật cũng quy định hai trường hợp nhưng không quy định thành các điểm khác nhau như ở một số tội phạm khác, hai trường hợp đó là Trốn thuế với số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác. a. Trốn thuế với số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ số tiền trốn thuế là từ năm trăm triệu dồng trở lên. Việc xác định số tiền trốn thuế cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật. b. Trốn thuế trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác. So với các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý khác quy định tại chương XVI Bộ luật hình sự, thì trường hợp phạm tội này có những đặc điểm mà các tội phạm không quy định, thường thì các tội phạm khác chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, nhưng đối với tội trốn thuế và tội hai tội quy định tại Điều 180 và 181 Bộ luật hình sự, nhà làm luật quy định phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Đối với các tội phạm quy định ở các chương khác trong Bộ luật hình sự chúng ta cũng gặp một số trường hợp cũng quy định phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác với phạm tội thuộc trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng có thể định lượng được, nhưng phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khó có thể định lượng, cũng chính vì thế trong các văn bản hướng dẫn trước đây của các cơ quan tư pháp ở trung ương cũng chỉ hướng dẫn một cách chung chung hoặc coi phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng. Việc xác định phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng nói chung, cũng như đối với tội trốn thuế nói riêng không chỉ căn cứ vào hậu quả của hành vi gây ra mà phải căn cứ vào tính chất của hành vi, thủ đoạn thực hiện hành vi và trong một số trường hợp còn phải căn cứ vào nhân thân của người phạm tội. Trồn thuế trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác là trường hợp tuy số tiền trốn thuế chưa đến 500 triệu đồng nhưng đã gây ra hậu quả nghiêm trọng bao gồm cả hậu quả về vật chất, thể chất hoặc phi vật chất. Về hậu quả đặc biệt nghiêm trọng có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Nếu hậu quả do hành vi trốn thuế gây ra chưa tới mức đặc biệt nghiêm trọng, nhưng người phạm tội đã dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm để trốn với số lượng tiền thuế từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng, có nhân thân rất xấu, có nhiều tiền án tiền sự, đã tái phạm nhiều lần về tội trốn thuế mà còn vi phạm. Tuy nhiên, để áp dụng pháp luật thống nhất, các cơ quan chức năng cần hướng dẫn thế nào là phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng à đặc biệt nghiêm trọng nói chung và trốn thuế thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng nói riêng. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 161 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ hai đến đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. So với khoản 3 Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 3 Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội trốn thuế trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, thì áp dụng khoản 3 Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội trốn thuế theo khoản 3 Điều 161 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới hai nam tù, nhưng không được dưới sáu tháng tù; nếu có đủ điều khoản quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. Nếu người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật hoặc tuy chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, nhưng có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến ba lần số tiền trốn thuế So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 4 Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 có thay đổi như Nếu Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị phạt tiền đến mười lần giá trị số lợi bất chính”, còn khoản 4 Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị phạt tiền từ một lần đến ba lần số tiền trốn thuế”. Quy định tại Điều 185 đối với hình phạt tiền về tội trốn thuế rõ ràng là không chính xác vì người phạm tội trốn thuế không thể có thu lợi bất chính, mà chỉ có số tiền thuế mà người phạm tội đã trốn. Vì vậy, người phạm tội trốn thuế trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xét xử thì áp dụng khoản 4 Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999. Nếu áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, thì không được quá ba lần số tiền trốn thuế. 10. TỘI LỪA DỐI KHÁCH HÀNG Điều 162. Tội lừa dối khách hàng 1. Người nào trong việc mua, bán mà cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Phạm tội nhiều lần hoặc thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. Định Nghĩa Lừa dối khách hàng là hành vi gian dối trong việc cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng khi thực hiện hợp đồng mua, bán. Tội lừa dối khách hàng là tội phạm đã được quy định tại Điều 170 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hầu như hành vi lừa dối khách hàng rất ít khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mặc hành vi này xảy ra tương đối phổ biến. So với Điều 170 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999 không có nhiều sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm một số tình tiết là yếu tố định tội như “ gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng”; “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa dược xoá án tích”; về hình phạt Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999, thêm loại hình phạt cảnh cáo và phạt tiền và tăng hình phạt cải tạo không giam giữ lên ba năm và hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng một điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM Tội phạm này gần giống với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự, người phạm tội cũng dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền hoặc tài sản của người khác. Tuy nhiên, tội lừa dối khách hàng hành vi gian dối chỉ trong phạm vi mua bán đối với khách hàng và cũng chỉ trong việc cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng. Chỉ có khách hàng mới là người bị thiệt hại, đây là dấu hiệu để phân biệt tội lừa dối khách hàng với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này tuy không phải là chủ thể đặc biệt nhưng cũng không phải ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm này, mà chỉ những người tham gia vào quá trình mua bán thường là người bán mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Các điều kiện khác về chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với các tội phạm khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này trong bất cứ trường hợp nào, vì cả hai khoản của Điều 162 Bộ luật hình sự không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Nếu chưa gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng, thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi lừa dối khách hàng hoặc đã bị kết án về tội lừa dối khách hàng, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới bị coi là phạm tội lừa dối khách hàng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự trong việc mua bán. Bất cứ trong một nền kinh tế nào thì việc mua bán phải bảo đảm tính trung thực, chống việc ăn bớt, cân điêu, mua đầy bán vơi... Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, tội lừa dối khách hàng quy định tại chương các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là không phù hợp, vì nó xâm phạm trực tiếp đến lợi ích vật chất của khách hàng. Đối tượng tác động của tội phạm này là tiền, hàng hoá, vật phẩm được đưa vào quá trình mua bán trao đổi. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Để thực hiện thủ đoạn gian dối, người phạm tội có thể thực hiện một trong các hành vi như Cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc có những hành vi khác lừa dối khách hàng. Nhà làm luật liệt kê một số hành vi điển hình trong việc mua, bán như Cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng. Tuy nhiên, để bảo đảm không lọt tội, nhà làm luật quy định có tính chất mở “hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác”, nhưng thủ đoạn bao giờ cũng được thể hiện bằng một hành vi cụ thể, nên ngoài những hành vi đặc trưng đã được liệt kê, người phạm tội lừa dối khách hàng có thể có những hành vi khác. Có ý kién cho rằng, để phân biệt với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phải căn cứ vào mối quan hệ giữa người phạm tội với bị thiệt hại. Nếu người bị thiệt hại là khách hàng người mua là khách hàng của người bán, ngược lại người bán là khách hàng của người mua, thì hành vi của người phạm tội là hành vi lừa dối khách hàng. Như vậy, có thể suy ra, nếu người bị thiệt hại không phải là khách hàng thì hành vi gian dối là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng trên thực tế lại không phải như vậy, mà có những trường hợp rõ ràng người mua là khách hàng của người bán, nhưng hành vi gian dối của người bán vẫn là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản chứ không phải là hành vi lừa dối khách hàng. Ví dụ Một người đem mật gấu giả ra chợ bán và nói dối là đó là mật gấu thật, để lừa người mua. Trong trường hợp này người mua mật gấu giả là khách hàng của người bán, nhưng hành vi của người bán mật gấu giả không phải là hành vi lừa dối khách hàng mà là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, dấu hiệu khách hàng không phải là dấu hiệu để phân biệt giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng. Vậy, dấu hiệu để phân biệt giữa hai tội này là gì ? Đây là vẫn đề không đơn giản. Nếu nhà làm luật không quy định “hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác” thì có thể căn cứ vào hành vi khách quan như Cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng. Ngoài những hành vi này, nếu người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối khác là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng vì nhà làm luật quy định ngoài những hành vi đã liệt kê còn quy định thủ đoạn gian dối khác, nên việc tìm ra dấu hiệu để phân biệt giữa tội lừa đảo với tội lừa dối khách hàng thật không đơn giản. Thực tiễn cho thấy việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi lừa dối khách hàng hầu như không có, trong khi đó thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi lừa đảo lại khá nhiều, nên những trường hợp cần phân biệt không được đặt ra. Có ý kiến cho rằng, hành vi lừa dối khách hàng và hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xét về bản chất chỉ là một, nên không cần thiết phải quy định tội lừa dối khách hàng, vì trên thực tế chưa có trường hợp nào truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này, nên sự tồn tại của tội phạm này trong Bộ luật hình sự là không cần thiết. Quan điểm này có nhân tố hợp lý cả về lý luận và thực tiễn, hy vọng các nhà làm luật xem xét khi có chủ trương sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự. b. Hậu quả Hậu quả của hành vi lừa dối khách hàng là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... Hậu quả trực tiếp của hành vi lừa dối khách hàng là gây thiệt hại vật chất cho khách hàng, làm cho khách hàng mất di một phần số lượng hàng hoá hoặc hàng hoá không bảo đảm chất lượng. Đối với tội lừa dối khách hàng, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội phải là người người đã bị xử phạt hành chính về hành vi lừa dối khách hàng hoặc đã bị kết án về tội lừa dối khách hàng, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới bị coi là phạm tội lừa dối khách hàng. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội lừa dối khách hàng, nhà làm luật không quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi lừa dối khách hàng là do cố ý cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, biết rõ hành vi của mình là gây thiệt hại cho khách hàng, những vẫn thực hiện. Động cơ, mục đích của người phạm tội này không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội lừa dối khách hàng bao giờ cũng vì động cơ tư lợi. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội lừa dối khách hàng không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 162 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội lừa dối khách hàng, người phạm tội có thể bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. So với tội lừa dối khách hàng quy định tại Điều 170 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì khoản 1 Điều 162 quy định thêm hai loại hình phạt nhẹ hơn so với khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự năm 1985 và nếu so sánh giữa Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 170 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội lừa dối khách hàng được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Tuy nhiên, nếu áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì không được quá một năm. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 162 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình cảnh cáo hoặc phạt tiền; Toà án chỉ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể. 2. Phạm tội lừa dối khách hàng thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 162 Bộ luật hình sự Khoản 2 Điều 162 Bộ luật hình sự quy định hai trường hợp phạm tội nhưng không quy định thành các điểm khác nhau như ở một số tội phạm khác, hai trường hợp đó là Phạm tội nhiều lần hoặc thu lợi bất chính lớn. a. Phạm tội nhiều lần Cũng như trường hợp phạm tội nhiều lần đối với các tội phạm khác, lừa dối khách hàng nhiều lần là có từ hai lần lừa dối khách hàng trở lên và mỗi lần lừa dối khách hàng đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. b. Thu lợi bất lớn Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp thu lợi bất chính lớn đối với một số tội phạm khác, là số tiền lời mà người phạm tội thu được do hành vi lừa dối khách hàng. Số tiền thu lợi bất chính là hiệu số của giá trị tiền vốn mà người phạm tội bỏ ra để kinh doanh với số tiền thu được mà người phạm tội do lừa dối khách hàng thu được. Ví dụ Một người bỏ ra 500 triệu để kinh doanh và thu về được 600 triệu, thì số tiền thu lợi bất chính là 100 triệu đồng - = Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính lớn nếu người phạm tội lừa dối khách hàng thu lợi bất chính từ đồng đến dưới đồng. Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật có thể bị phạt tù từ hai năm đén bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. So với tội lừa dối khách hàng quy định tại Điều 170 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999 không nhẹ hơn và cũng không nặng hơn, nhưng nếu so sánh giữa Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 170 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội lừa dối khách hàng thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Tuy nhiên, nếu là phạm tội nhiều lần mà thu lợi bất chính chưa lớn thì chỉ áp dụng khoản 1 của điều luật vì tình tiết này là tình tiết định khung hình phạt mới. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội đầu cơ theo khoản 2 Điều 162 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới hai năm tù. Nếu người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với người phạm tội này, thì khoản 3 Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt tiền thay cho hình phạt cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc những công việc nhất định. Vì vậy, nếu người phạm tội lừa dối khách hàng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không được áp dụng hình phạt bổ sung, vì hình phạt cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc những công việc nhất định đã bị bỏ, còn hình phạt tiền lại là hình phạt mới. 11. TỘI CHO VAY LÃI NẶNG Điều 163. Tội cho vay lãi nặng 1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm. 2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa Cho vay lãi nặng là hành vi cho người khác vay tiền với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột. Tội cho vay lãi nặng là tội phạm đã được quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng do điều văn của điều luật quy định không cụ thể, rõ ràng nên thực tiễn khó áp dụng, hầu như không có trường hợp cho vay lãi nặng nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mặc dù tình trạng cho vay lãi nặng xảy ra tương đối phổ biến, có trường hợp rất nghiêm trọng. Thấy được sự bất hợp lý này nên khi soạn thảo và thông qua Bộ luật hình sự năm 1999, nhà làm luật đã cụ thể hơn hành vi cho vay lãi nặng để việc áp dụng dễ dàng, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. So với Điều 171 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều thay đổi cơ bản. Nếu Điều 171 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định “ Người nào cho vay lãi nặng” thì Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên”; khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “sử dụng công quỹ” để cho vay lãi nặng là yếu tố định khung hình phạt, thì khoản 2 Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 không coi tình tiết này là yếu tố định khung hình phạt nữa mà quy định “thu lợi bất chính lớn” mới là yếu tố định khung hình phạt, đồng thời quy định hình phạt bổ sung ngay trong điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, bất cứ ai nếu thoả mãn các điều kiện quy định của pháp luật dều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, tội phạm này là tội phạm ít nghiêm trọng, nên người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này trong bất cứ trường hợp nào, vì cả hai khoản của Điều 163 Bộ luật hình sự không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Có ý kiến cho rằng, ngoài lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tội cho vay lãi nặng còn bao gồm cả lĩnh vực kinh doanh khác như cho thuê tài sản kể cả bất động sản và động sản, vì trên thực tế không chỉ cho vay tiền mà còn cho thuê, mướn tài sản với số tiền thuê rất cao và cũng có tính chất bóc lột, nếu chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ thì chưa đáp ứng được tình hình, nhất là trong một nền kinh tế thị trường. Quan điểm trên cũng có nhân tố hợp lý nhưng tội phạm này, nhà làm luật chỉ quy định hành vi cho vay mà không quy định hành vi cho thuê tài sản, thực ra hành vi cho vay, xét về bản chất cũng là hành vi cho thuê, nhưng là cho thuê tiền, song không ai gọi là cho thuê tiền. Hơn nữa, việc cho vay tiền còn có quy định của ngân hàng về lãi suất, trên cơ sở lãi suất do ngân hàng quy định để xác định người cho vay đã lẫy lãi từ mười lần trở lên hay không. Tuy nhiên, ngoài việc cho vay tiền, hiện nay trong xã hội còn có dịch vụ cầm đồ, mà dịch vụ này cũng là một thủ đoạn để người nhận cầm đồ lấy lãi suất rất cao. Nếu nhận cầm đồ với lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên thì cũng bị coi là hành vi cho vay lãi nặng, bởi lẽ Cầm đồ thực chất là hành vi cho vay có bảo đảm bằng hình thức “cầm cố”. Theo hướng dẫn tại Thông tư số 13/1999/TT-BTM về lãi suất đối với dịch vụ cầm đồ sẽ do hai bên thoả thuận nhưng không được quá 3%/tháng. Trường hợp cho vay dưới 10 ngày thì lãi suất không được quá 0,3%/ ngày. Đối tượng tác động của tội phạm này là số tiền mà người phạm tội cho người khác vay, dùng tiền để kinh doanh bất hợp pháp. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Hành vi khách quan của người phạm tội là hành vi cho người khác vay tiền. Hành vi cho vay có thể được biểu hiện nhiều dạng khác nhau, người cho vay và người vay có thể bằng một hợp đồng viết, nhưng có thể chỉ bằng một hợp đồng miệng. Thủ đoạn mà người phạm tội cho vay lãi nặng thường lợi dụng người đi vay gặp hoàn cảnh khó khăn đột xuất như bị thiên tại, bệnh tật hoặc nhữn khó khăn khác cần một số tiền gấp để trang trải, nên người cho vay đã “ép” người vay phải chịu lãi suất cao. Điển hình cho hành vi cho vay lãi nặng là Phan Thị Trúc, vợ của Trương Văn Cam Năm Cam, dựa vào thế lực của Năm Cam, thị Trúc đã cho nhiều người vay nhiều lần với lãi suất gấp 12 đến 15 lần lãi suất cao nhất theo quy định của pháp luật. Ví dụ Tửứ thaựng ủeỏn thaựng thị Trúc cho chị Lê Thị Hồng Ngọc vay ủông traỷ goựp moói ngaứy ủồng trong 40 ngaứy thaứnh đồng; laừi suaỏt 15% thaựng, gaỏp 12 laàn laừi suaỏt bỡnh quaõn cao nhaỏt do ngaõn haứng nhaứ nửụực quy ủũnh là 1,25% thaựng. Toồng laừi thu ủửụùc trong 8 thaựng laứ ủồng. Tửứ thaựng 8-1997 ủeỏn thaựng 8-1999, Trúc cho chị Ngọc vay đồng, traỷ goựp moói ngaứy đồng trong 40 ngaứy thaứnh đồng; laừi suaỏt 15% thaựng gaỏp 12,8 laàn laừi suaỏt bỡnh quaõn cao nhaỏt ngaõn haứng nhaứ nửụực quy ủũnh là 1,17% thaựng. Toồng laừi thu ủửụùc trong 24 thaựng laứ đồng. Tửứ thaựng 8-1999 ủeỏn thaựng 6-2000, cho vay đồng, traỷ goựp moói ngaứy đồng trong 48 ngaứy thaứnh đồng. Laừi suaỏt 12,5% thaựng gaỏp 11,9 laàn laừi suaỏt bỡnh quaõn cao nhaỏt ngaõn haứng nhaứ nửụực quy ủũnh là 1,05% thaựng. Toồng laừi thu ủửụùc trong 10 thaựng laứ đồng. Tửứ thaựng 6-2000 ủeỏn thaựng 12-2001, Trúc cho chị Ngọc vay đồng, traỷ goựp moói ngaứy đồng trong 60 ngaứy thaứnh đồng. Laừi suaỏt 10% thaựng gaỏp 10 laàn laừi suaỏt bỡnh quaõn cao nhaỏt ngaõn haứng nhaứ nửụực quy ủũnh là 1% thaựng. Toồng laừi thu ủửụùc trong 18 thaựng laứ đồng. Tửứ thaựng 12-2001 tụựi thaựng 1-2002, cho vay 130 trieọu vụựi laừi suaỏt 10% thaựng, gaỏp 11,1 laàn laừi suaỏt bỡnh quaõn cao nhaỏt ngaõn haứng nhaứ nửụực quy ủũnh là 0,9% thaựng. Toồng tieàn laừi thu ủửụùc trong 2 thaựng laứ đồng. Tửứ thaựng 4-2001 ủeỏn 5-2001, Trúc cho chị Ngọc vay USD vụựi laừi suaỏt 5% thaựng, gaỏp 10,75 laàn laừi suaỏt bỡnh quaõn cao nhaỏt ngaõn haứng nhaứ nửụực quy ủũnh là 5,58% naờm tửực 0,465% thaựng. Moói thaựng thu laừi USD. Toồng tieàn laừi Truực thu ủửụùc trong 1 thaựng laứ USD, tửụng ủửụng đồng. b. Hậu quả Hậu quả của hành vi cho vay lãi nặng là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... Hậu quả trực tiếp của hành vi cho vay lãi nặng là gây thiệt hại cho người vay, làm cho người vay phải chịu mức lãi quá cao. Đối với tội cho vay lãi nặng, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, việc xác định hậu quả sẽ có ý nghĩa trong việc đánh tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi cho vay lãi nặng khi quyết định hình phạt. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội cho vay lãi nặng, nhà làm luật còn quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm như Mức lãi suất mà người cho vay yêu cầu người vay phải trả cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên và hành vi cho vay phải có tính chất chuyên bóc lột. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng chuyên doanh cũng như các Ngân hàng cổ phần, khi cho vay có những mức lãi suất khác nhau đối với từng loại và từng thời gian khác nhau. Vì vậy, khi xác định mức lãi suất từ mười lần lần trở lên phải căn cứ vào mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định, chứ không phải căn cứ vào mức lãi suất bình quân và phải lấy mức lãi suất cao nhất về cùng loại cùng thời gian cho vay của một ngân hàng có mức lãi suất cao nhất. Ví dụ Cũng là cho vay có kỳ hạn, nhưng Ngân hàng A có mức lãi suất 1% tháng, Ngân hàng B có mức lãi suất 1,2% tháng, Ngân hàng C lại có mức lãi suất 1,5% tháng, thì phải lấy mức lãi suất 1,5% tháng để xác định người cho vay đã quá 10 lần so với mức lãi suất 1,5% tháng chưa. Có tính chất bóc lột là hành vi cho vay lãi nặng nhằm trục lợi bất chính, người phạm tội chuyên sống bằng nghề cho vay lãi nặng, làm cho người vay phải điêu đứng, thậm chí phải gán cả tài sản, nhà cửa, ruộng vườn để trả nợ hoặc đến làm con sen, con ở trong nhà người cho vay đẻ trừ nợ. Tuy nhiên, viẹc xác định hành vi cho vay lãi nặng có tính chất bóc lột cũng là vấn đề trừu tượng. Thế nào là “bóc lột” cũng đang là vấn đề các nhà lý luận có ý kiến khác nhau. Vì vậy, có ý kiến cho rằng, bản thân việc cho vay lãi nặng đã chứa đựng tính chất bóc lột rồi, nên không cần phải quy định dấu hiệu “có tính chất bót lột” nữa. Tính chất bóc lột khác với mục đích bóc lột. mục đích bóc lột là người phạm tội nhằm tới hướng tới thuộc ý thức chủ quan, còn tính chất bóc lột là bản chất của hành vi nằm ngay trong hành vi. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi cho vay lãi nặng là do cố ý cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, biết rõ hành vi của mình là gây thiệt hại cho người vay, những vì lợi nhuận nên vẫn thực hiện. Động cơ, mục đích của người phạm tội này không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội cho vay lãi nặng bao giờ cũng vì động cơ tư lợi. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội cho vay lãi nặng không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 163 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội cho vay lãi nặng, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với tội cho vay lãi nặng quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, và nếu so sánh giữa Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 171 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội cho vay lãi nặng được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 163 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền với mức thấp; Toà án chỉ áp dụng hình phạt tiền ở mức cao 8,9 hoặc 10 lần số tiền lãi hoặc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể. 2. Phạm tội cho vay lãi nặng thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 163 Bộ luật hình sự Khoản 2 Điều 163 Bộ luật hình sự chỉ quy định một trường hợp phạm tội đó là Phạm tội thu lợi bất chính lớn. Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp thu lợi bất chính lớn đối với một số tội phạm khác, là số tiền lời mà người phạm tội thu được do cho vay. Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính lớn nếu người phạm tội cho vay lãi nặng thu lợi bất chính từ đồng đến dưới đồng. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, và nếu so sánh giữa Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 171 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội cho vay lãi nặng mà thu lợi bất chính lớn thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội đầu cơ theo khoản 2 Điều 163 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới sáu tháng tù hoặc chuyển sang loại hình phạt khác được quy định tại khoản 1 của điều luật. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến ba năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với người phạm tội này, thì khoản 3 Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, cụ thể như sau Nếu Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị phạt tiền đến mười lần số lợi bất chính” thì khoản 3 Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số lợi bất chính”. Nếu Điều 185 quy định “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc những công việc nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 3 Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Có thể cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Vì vậy, nếu người phạm tội cho vay lãi nặng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý áp dụng khoản 3 Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 để quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. 12. TỘI LÀM TEM GIẢ, VÉ GIẢ; TỘI BUÔN BÁN TEM GIẢ, VÉ GIẢ Điều 164. Tội làm tem giả, vé giả; tội buôn bán tem giả, vé giả 1. Người nào làm, buôn bán các loại tem giả, vé giả với số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm a Có tổ chức; b Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c Thu lợi bất chính lớn; d Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Điều 164 Bộ luật hình sự quy định hai tội danh khác nhau, nhưng cùng có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội như nhau nhà làm luật quy định trong cùng một điều luật. Để tiện việc nghiên cứu và theo dõi, chúng tôi sẽ phân tích dấu hiệu pháp lý của từng tội phạm. 12a. tội làm tem giả, vé giả Định nghĩa Làm tem giả, vé giả là hành vi in ấn, sao chép hoặc bằng phương pháp khác để làm ra các loại tem giả, vé giả giống như tem thật, vé thật được Nhà nước cho phép in ấn phát hành. Tội làm tem giả, vé giả là tội phạm đã được quy định tại Điều 172 và Điều 173 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, cấu tạo của Điều 172 và Điều 173 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này so với Điều 164 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung. Nếu Điều 172 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội chiếm đoạt tem, phiếu, tội làm hoặc lưu hành tem, phiếu, giấy tờ giả dùng vào việc phân phối và Điều 173 quy định cụ thể các loại vé, thì Điều 164 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định tội làm tem giả, tội buôn bán tem giả. Các dấu hiệu cấu thành tội phạm nhà làm luật quy định tại Điều 164 cũng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội. Hình phạt quy định tại Điều 164 so với các Điều 172,173 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng nhẹ hơn nhiều, hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, bất cứ ai nếu thoả mãn các điều kiện quy định của pháp luật đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, tội phạm này là tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, nên người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này trong bất cứ trường hợp nào, vì cả hai khoản của Điều 164 Bộ luật hình sự không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Nếu số lượng tem giả, vé giả chưa lớn thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi làm tem giả, vé giả hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự trong lĩnh vực quản lý việc in ấn, phát hành các loại tem, các loại vé theo quy định của Nhà nước. Đối tượng tác động của tội phạm này là các loại tem, các loại vé do Nhà nước in ấn và phát hành dùng vào việc quản lý kinh tế. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy ngoài các loại tem, loại vé còn có các hoá đơn do Bộ tài chính phát hành cũng nhằm quản lý về thu thuế, nhưng lại không thuộc đối tượng của tội phạm này mà thuộc đối tượng của các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính. Vì vậy, có ý kiến cho rằng, khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 nhà làm luật sẽ quan tâm đến vấn đề này. Các loại tem do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát hành tương đối nhiều như Tem thư do Tổng cục bưu chính phát hành, tem hàng hoá do Bộ tài chính phát hành... Các loại vé như Vé tàu, vé xe, vé máy bay, vé xem bóng đá, vé sổ xố, vé thu phí cầu đường, vé xem phim, vé xem kịch.... Nếu người phạm tội chỉ làm tem giả thì định tội là làm tem giả mà kh0 định tội là làm tem giả, vé giả; nếu người phạm tội làm cả tem giả và vé giả thì định tội là làm tem giả, vé giả. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội làm tem giả, vé giả chỉ có một hành vi khách quan là làm ra các loại tem, các loại vé giả bằng nhiều phương pháp và thủ đoạn khác nhau như in ấn, sao chụp, vẽ hoặc bằng thủ khác để làm ra các loại tem, các loại vé giống như tem thật, vé thật nhằm đánh lừa người khác. Có thể nói, hành vi làm tem giả, vé giả cũng tương tự như hành vi làm hàng giả, nhưng hàng giả ở đây lại là các loại tem, các loại vé, là loại hàng đặc biệt, loại hàng này có thể có giá trị đem mua bán, nhưng cũng có thể không đem mua bán được, nó chỉ có ý nghĩa xác định giá trị hàng hoá hoặc vật phẩm. Nếu người phạm tội làm tem giả, vé giả, mà loại tem giả, vé giả đó có phải con dấu, chữ kỹ mới có giá trị, và người phạm tội đã giả cả con dấu chữ ký thì cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm tem giả, vé giả mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm con dấu giả, vì hành vi làm con dấu giả cũng chỉ nhằm làm ra tem giả, vé giả. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, trong trường hợp này người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội làm giả con dấu theo Điều 267 Bộ luật hình sự, cùng với tội làm tem giả, vé giả theo Điều 164 Bộ luật hình sự. Trọng tài cho những ý kiến khác nhau này chỉ có thể là Uỷ ban thường vụ khi giải thích luật. b. Hậu quả Hậu quả của hành vi làm vé giả, tem giả là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... Hậu quả trực tiếp của hành vi làm tem giả, vé giả là gây thiệt hại cho người sản xuất và tiêu dùng và những thiệt hại về quản lý của Nhà nước đối với hàng hoá. Đối với tội làm tem giả, vé giả, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, việc xác định hậu quả sẽ có ý nghĩa trong việc đánh tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi làm tem giả, vé giả khi quyết định hình phạt. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội làm tem giả, vé giả, nhà làm luật còn quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm như Số lượng tem giả, vé giả phải ở mức được coi là có số lượng lớn. Hiện nay, chưa có hướng dẫn tem giả, vé giả bao nhiêu thì được coi là lớn, vì giá trị của mỗi loại tem giả, vé giả rất khác nhau. Ví dụ Vé may bay có giá trị hơn vé xem bóng đá. Ngay cùng một loại vé, giá trị của nó cũng rất khác nhau như Vé may bay quốc tế, đường dài có giá trị hơn vé máy bay trong nước đường ngắn. Đây cũng là vấn đề thực tiễn xét xử vướng mắc nhiều năm qua nhưng chưa được giải thích hướng dẫn. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi làm tem giả, vé giả là do cố ý cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, biết rõ hành vi của mình là gây thiệt hại cho xã hội. Động cơ, mục đích của người phạm tội này không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội làm tem giả, vé giả bao giờ cũng vì động cơ tư lợi. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội làm tem giả, vé giả không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 164 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội làm tem giả, vé giả, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với tội tem giả, vé giả quy định tại các Điều 172, 173 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 164 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, và nếu so sánh giữa Điều 164 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 172, 173 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 164 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội làm tem giả, vé giả được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 164 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 164 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc áp dụng dưới 6 tháng tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giám nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tù đến 3 năm. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. 2. Phạm tội làm tem giả, vé giả thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 163 Bộ luật hình sự a. Có tổ chức Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, làm tem giả, vé giả có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. xem phạm tội có tổ chức b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn Cũng như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm các tội khác, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm tem giả, vé giả, là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm tem giả, vé giả xem lợi dụng chức vụ, quyền hạn ở các tội phạm đã phân tích ở trên. c. Thu lợi bất chính lớn Thu lợi bất chính lớn là số tiền lời mà người phạm tội thu được do hành vi làm tem giả, vé giả. Số tiền thu lợi bất chính là hiệu số của giá trị nguyên liệu làm nên tem giả, vé giả với số tiền thu được mà người phạm tội bán số tem giả, vé giả đó. Trong khi chưa có hướng dẫn của các cơ quan chức năng, căn vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm này, đối chiếu với một số tội phạm khác, có thể coi thu lợi bất chính lớn nếu người phạm tội làm tem giả, vé giả thu lợi bất chính từ đồng đến dưới đồng. d. Tái phạm nguy hiểm Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự và bất kỳ trường hợp tái phạm nguy hiểm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, phạm tội làm tem giả, vé giả trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội làm tem giả, vé giả không phân biệt phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của Điều 164 Bộ luật hình sự. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 172 à khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 164 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, và nếu so sánh giữa Điều 164 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 172, 173 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 164 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội đầu cơ theo khoản 2 Điều 164 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới hai năm tù hoặc chuyển sang loại hình phạt khác được quy định tại khoản 1 của điều luật. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với người phạm tội này, thì khoản 3 Điều 164 Bộ luật hình sự năm 1999 có những thay đổi như sau Nếu Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có thể bị phạt tiền đến mười lần số lợi bất chính” thì khoản 3 Điều 164 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “có thể bị phạt tiền từ từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”. Vì vậy, nếu người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền thì không được quá 10 lần số lợi bất chính và không được quá 30 triệu đồng. Nếu Điều 185 không quy định loại hình phạt “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc những công việc nhất định”, thì khoản 3 Điều 164 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Có thể cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Vì vậy, nếu người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý, thì không được áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc những công việc nhất định đối với người phạm tội. Nếu Điều 185 quy định hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, thì khoản 3 Điều 164 không quy định loại hình phạt này nữa. Vì vậy, nếu người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý, thì không được áp dụng hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với người phạm tội. 12B. TỘI BUÔN BÁN TEM GIẢ, VÉ GIẢ Định nghĩa Buôn bán tem giả, vé giả là hành vi mua, xin, tàng trữ, vận chuyển tem giả, vé giả nhằm bán lại cho người khác; dùng tem giả, ve giả để trao đổi, thanh toán; dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán... lấy tem giả, vé giả để bán lại cho người khác. Cũng như đối với tội làm tem giả, vé giả, tội buôn bán tem giả, vé giả là tội phạm đã được quy định tại Điều 172 và Điều 173 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, cấu tạo của Điều 172 và Điều 173 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này so với Điều 164 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Cũng như đối với tội làm tem giả, vé giả, tội buôn bán tem giả, vé giả, tội phạm này là tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, nên người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này trong bất cứ trường hợp nào. Nếu số lượng tem giả, vé giả chưa lớn thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi làm tem giả, vé giả hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự trong lĩnh vực quản lý việc lưu hành các loại tem, các loại vé theo quy định của Nhà nước. Đối tượng tác động của tội phạm này cũng là các loại tem, các loại vé do Nhà nước in ấn và phát hành dùng vào việc quản lý kinh tế. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội buôn bán tem giả, vé giả có thể thực hiện một trong các hành vi như Mua, xin, tàng trữ, vận chuyển tem giả, vé giả nhằm bán lại cho người khác; dùng tem giả, vé giả để trao đổi, thanh toán; dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán... lấy tem giả, vé giả để bán lại cho người khác. Nhà làm luật quy định hành vi buôn bán để phân biệt với một số tội chỉ quy định hành vi mua bán như Mua bán trẻ em; mua bán phụ nữ; mua bán chất ma tuý; mua bán trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện ký thuật quân Đói với các tội phạm này, người phạm tội chỉ cần mua hoặc bán là cấu thành tội mua bán, còn buôn bán là hành vi có tính chất kinh doanh. Nếu người phạm tội là ra tem giả, vé giả rồi đem bán tem giả, vé giả đó thì không thuộc trường hợp buôn bán tem giả, vé giả mà họ chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm tem giả, vé giả. Tuy nhiên, số tiền mà họ bán tem giả, vé giả là tiền thu lợi bất chính. Nhà làm luật quy định người làm vé giả thu lợi bất chính lớn cũng nhằm để áp dụng đối với trường hợp người làm tem giả, vé giả bán số tem giải, vé giả mà họ làm ra. b. Hậu quả Đối với tội làm tem giả, vé giả, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, việc xác định hậu quả sẽ có ý nghĩa trong việc đánh tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi làm tem giả, vé giả khi quyết định hình phạt. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội buôn bán tem giả, vé giả, nhà làm luật còn quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm như Số lượng tem giả, vé giả phải ở mức được coi là có số lượng lớn. Số lượng tem giả , vé giả bao nhiêu thì được coi là lớn cần phải có sự giải thích, hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi buôn bán tem giả, vé giả là do cố ý cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, biết rõ hành vi của mình là gây thiệt hại cho xã hội. Động cơ, mục đích của người phạm tội này không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội buôn bán tem giả, vé giả bao giờ cũng vì động cơ tư lợi. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ Do tội buôn bán tem giả, vé giả quy định trong cùng một điều luật với tội làm vé giả, tem giả nên các trường hợp phạm tội cụ thể cũng tương tự như đối với tội làm tem giả, vé giả. xem các trường hợp phạm tội cụ thể đối với tội làm tem giả, vé giả đã phân tích ở trên 13. TỘI CỐ Ý LÀM TRÁI QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG Điều 165. Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây thiệt hại từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm a Vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác; b Có tổ chức; c Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d Gây thiệt hại từ ba trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. 3. Phạm tội gây thiệt hại từ một tỷ đồng trở lên hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định Nghĩa Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng là tội phạm đã được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 có những thay đổi đáng kể làm cho các dấu hiệu cấu thành tội phạm này có thay đổi, cả dấu hiệu định tội và dấu hiệu định khung hình phạt. Nếu Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, thì Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm “gây thiệt hại từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng”. Nếu Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định thiệt hại là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt, thì Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định cụ thể thiệt hại bao nhiêu là dấu hiệu cấu thành tội phạm, thiệt hại bao nhiêu là dấu hiệu định khung hình phạt. Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn mới có thể trở thành chủ thế của tội phạm này. Mặt dù tội phạm này là tội phạm quy định tại chương các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, nhưng các dấu hiệu về chức vụ, quyền hạn lại hoàn toàn giống như các tội phạm về chức vụ quy định tại chương XXI Bộ luật hình sự. Người có chức vụ quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ15. Mặc dù chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt nhưng người thực hiện hành vi phạm tội cũng phải hội tụ đủ các điều kiện quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 165 Bộ luật hình sự, vì khoản 1 Điều 165 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng mà theo Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng. Nếu thiết hại dưới một trăm triệu đồng, thì người thực hiện hành vi cố ý làm trái phải là người đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này chính là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. Đối tượng tác động của tội phạm này là các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. Các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế có rất nhiều và thường được thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế xã hội. Vì vậy, khi xác định một hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế cần phải căn cứ vào một văn bản cụ thể của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xêm hành vi cố ý làm trái là trái quy định nào ở văn bản nào của Nhà nước. Nói chung, các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế được thể hiện dưới dạng các văn bản pháp luật như Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Quyết định của các Bộ, các Ngành có giá trị áp dụng chung trong phạm vi toàn quốc. Các văn bản do chính quyền địa phương ban hành có giá trị trong phạm vi địa phương trên cơ sở các văn bản của Nhà nước trung ương và không trái với quy định của văn bản trung ương thì cũng được coi là những quy định về quản lý kinh tế. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, các quy định do địa phương ban hành không phải là đối tượng tác động đối với tội phạm này, vì nó không có tính bắt buộc chung. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Hành vi khách quan của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế chính là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế xem lợi dụng chức vụ, quyền hạn ở các tội phạm khác đã phân tích ở trên. Làm trái là không làm, làm không đầy đủ hoặc làm khác với quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. Hành vi làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế được coi như hệ quả của hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn là tiền đề, là thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. Nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhưng không làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, mà làm trái các quy định khác về quản lý hành chính, quản lý cán bộ, quản lý xã hội... thì không thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Điều 165 Bộ luật hình sự, mà tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ Điều 281 hoặc các tội phạm tương ứng có quy định lợi dụng chức vụ, quyền hạn là yếu tố định khung hình phạt. Thực tiễn xét xử cho thấy, người phạm tội biết việc mình làm là trái với qua định của Nhà nước nhưng trước khi làm đã hỏi ý kiến cấp trên và được cấp trên đồng ý. Khi hậu quả của hành vi làm trái xảy ra, người phạm tội thường đổ lỗi cho cấp trên. Trong trường hợp này, người có hành vi làm trái phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình đồng thời cấp trên của họ cũng phải liên đới chịu trách nhiệm về việc đồng ý cho cấp dưới thực hiện hành vi làm trái. Nếu cấp dưới hoàn toàn không biết đó là trái, nhưng trước khi thực hiện đã xin ý kiến cấp trên và được cấp trên đồng ý và cấp trên cũng không biết đó là làm trái thì cả hai không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. Tuy nhiên, việc xác định họ có biết hay không lại là vấn đề thuộc nghĩa vụ chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong nền kinh tế thị trường, các chính sách kinh tế của Nhà nước luôn thay đổi, nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu, nên nhiều người cho rằng Nhà nước không nen quy định tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, nếu vẫn quy định thì vô hình trói buộc các doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử và hiện nay nhiều người đứng đầu trong các cơ quan Nhà nước vẫn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây thiệt hại rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đến tiền của của Nhà nước, nên nhà làm luật vẫn quy định tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế là cần thiết. b. Hậu quả Đối với tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chưa cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, trước đây do không có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng nên thực tiễn xét xử không ít trường hợp do đánh giá khác nhau về hậu quả nghiêm trọng nên cũng có quan điểm khác nhau về việc xác định hành vi phạm tội. Nay Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 lượng hoá thiệt hại để làm ranh giới phân biệt giữa hành vi phạm tội với hành vi vi phạm. Nếu thiệt hại dưới đồng mà người phạm tội đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, giữa thiệt hại về tài sản và hậu quả nghiêm trọng vấn là hai vấn đề khác nhau, người phạm tội gây thiệt hại dưới 100 triệu đồng, thì phải kèm theo hai điều kiện, đó là đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm và gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, do cách hành văn của điều luật không rõ ràng nên có thể dẫn đến việc hiểu khác nhau về hai tình tiết này, nhưng thực tế cả hai điều kiện là điều kiện cần và đủ, thiếu một trong hai điều kiện là chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm này c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, nhà làm luật còn quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, đó là thiệt hại do hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây ra. Nếu thiệt hại trên 100 triệu thì không cần gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng thiệt hại dưới 100 triệu thì người phạm tội phải là người đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, tên tội danh vẫn quy định “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Tội danh như vậy rõ ràng là không phù hợp với điều văn của điều luật. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tên tội cũng đã thể hiện lỗi của người phạm tội là do cố ý cố ý làm trái..., tức là nhận thức rõ hành vi của mình là trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, biết rõ hành vi của mình là gây thiệt hại đến tài sản hoặc gây ra những thiệt hại khác cho xã hội, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho xảy ra. Động cơ, mục đích của người phạm tội này không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng thường vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác và nếu người phạm tội vì động cơ này thì thuộc trường hợp quy định tại diểm a khoản 2 của điều luật là tình tiết định khung hình phạt. Nếu cố ý làm trái quy định của Nhà nước để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác thì thuộc trường hợp phạm tội nhận hối lộ. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 165 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. So với tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại các Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, và nếu so sánh giữa Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 165 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc áp dụng dưới một năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tù đến 5 năm. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật a. Vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác Điểm a khoản 2 của điều luật quy định hai Toà án là yếu tố định khung hình phạt, đó là vì vụ lợi hoặc động cơ các nhân khác. Vì vụ lợi là trường hợp người phạm tội vì những lợi ích cụ bộ địa phương, cục bộ đơn vị, cơ quan, tổ chức của mình mà cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Hầu hết người phạm tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng đều có động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, rất ít trường hợp không có động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Cũng chính vì vậy, có ý kiến cho rằng, động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác không nên quy định là yếu tố định khung hình phạt. Động cơ cá nhân khác là ngoài động cơ vụ lợi, người phạm tội còn vì tình cảm cá nhân, vì nể nang mà cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Động cơ phạm tội là yếu tố thuộc mặt chủ quan, nên người phạm tội thường không thừa nhận, đo đó phải căn cứ vào các tình tiết khách quan của vụ án, nhất là mối quan hệ giữa người phạm tội với người mà người phạm tội đem lại lợi ích cho họ. Ví dụ Nguyễn Văn Đ là Giám đốc Ngân hàng Công thương tỉnh đã duyệt cho ông Trần Quốc T là anh vợ của Đ vay không có thế chấp số tiền đồng. Đến hạn, ông T không có khả năng thanh toán, kiểm tra mới biết ông T đã dùng số tiền vay được buôn bán hàng cấm nên bị bắt. b. Có tổ chức Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. xem phạm tội có tổ chức ở các tội phạm đã phân tích ở trên c. Dùng thủ đoạn xảo quyệt Dùng thủ đoạn xảo quyệt cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, là trường hợp người phạm tội có những việc làm gian dối một cách thâm hiểm, khó mà lường được. Thông thường, người phạm tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng ít dùng những thủ đoạn xảo quyệt. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp người phạm tội này đã tính toán một cách tỉ mỉ trước khi thực hiện hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, nếu như hậu quả xảy ra thì trốn tránh được trách nhiệm hoặc đổ lỗi cho người khác, cho khách quan. Ví dụ Hoàng T là Phó tổng giám đốc Tổng công ty xuất nhập khẩu tổng hợp do quan hệ bất chính với Vũ Thị C là giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn, nên đã chỉ đạo cho Đào Ngọc H giám đốc công ty thương mại dùng vốn kinh doanh cho vay với lãi suất cao, nhưng đén hạn thị C không trả được cả tiền gốc và lãi, vì dùng tiền vay được góp hụi và hụi bị vỡ. Sự việc bị bại lộ, Hoàng T không thừa nhận việc mình có chỉ đạo Đào Ngọc H cho thị C vay tiền, nên H phải chịu trách nhiệm hình sự, còn T vô can. d. Gây thiệt hại từ ba trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. Điểm d khoản 2 của điều luật quy định hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là Gây thiệt hại từ ba trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. Vì vậy, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng xác định người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội nào thì áp dụng tình tiết đó. Gây thiệt hại từ ba trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng Trường hợp phạm tội này không khó xác định, chỉ cần căn cứ vào thiệt hại do hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế mà người phạm tội thực hiện đã gây ra thiệt hại có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng. Tuy nhiên, thiệt hại này là thiệt hại về tài sản và được xác định từ khi người phạm tội có hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây ra. Nếu không phải là thiệt hại về tài sản mà là những thiệt hại khác được tính ra bằng tiền hoặc tuy đó là thiệt hại về tài sản nhưng không phải do hành vi cố ý làm trái hoặc tuy đó là do hành vi cố ý làm trái nhưng không phải là làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội này. Đây là một vấn đề khác phức tạp khi áp dụng trong thực tiễn xét xử. Nhiều trường hợp người phạm tội gây thiệt hại về tài sản nhưng lại do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, có nguyên nhân từ hành vi khác như thiếu trách nhiệm, cố ý làm trái quy định về quản lý hành chính, quản lý tận tự công cộng, quản lý trong các lĩnh vực khác, nhưng khi truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, các cơ quan tiến hành tố tụng thường cộng chung những thiệt hại về tài sản do nguyên nhân khác để buộc người phạm tội phải chịu. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. Đây là trường hợp do hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây ra những thiệt hại rất nghiêm trọng khác ngoài thiệt hại về tài sản như tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người và những thiệt hại khác. Hiện nay chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng khác do hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây ra. Tuy nhiên, có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, và nếu so sánh giữa Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 2 Điều 165 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới ba năm tù hoặc chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười hai năm tù. 3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật Cũng tương tự như điểm d khoản 2 của điều luật, khoản 3 quy định hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, nhưng không quy định từng điểm riêng đó là Gây thiệt hại từ một tỷ đồng trở lên hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. Vì vậy, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng xác định người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội nào thì áp dụng tình tiết đó. a. Gây thiệt hại từ một tỷ đồng trở lên Khi xác định trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm d khoản 2 của điều luật, chỉ cần căn cứ vào thiệt hại do hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế mà người phạm tội thực hiện đã gây ra thiệt hại có giá trị từ một tỷ đồng trở lên. b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác quy định tại điểm d khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ hậu quả do hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng khác ngoài thiệt hại về tài sản. Hiện nay chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác do hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây ra. Tuy nhiên, có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có thể bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 không nhẹ hơn và cũng không nặng hơn, nhưng nếu so sánh giữa Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới mười năm tù, nhưng không được dưới ba năm tù. Nếu người phạm tội thuộc cả trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến hai mươi năm tù. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, Người phạm tội còn có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 4 Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm loại hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, nhưng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định nhẹ hơn Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985. Vì vậy, đối với người phạm tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không được áp dụng hình phạt tịch thu tài sản, nếu áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định thì được áp dụng khoản 4 Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999. 14. TỘI LẬP QUỸ TRÁI PHÉP Điều 166. Tội lập quỹ trái phép 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn lập quỹ trái phép có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng và đã sử dụng quỹ đó gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm a Dùng thủ đoạn xảo quyệt để trốn tránh việc kiểm soát; b Để thực hiện tội phạm khác; c Quỹ trái phép có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; d Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ sáu năm đến mười năm a Quỹ trái phép có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng; b Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 4. Phạm tội trong trường hợp quỹ trái phép có giá trị từ một tỷ đồng trở lên, thì bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm. 5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. Định nghĩa Lập quỹ trái phép là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã dụng chức vụ, quyền hạn để lập quỹ trái với quy định của Nhà nước và đã sử dụng quỹ đó gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Hành vi lập quỹ trái phép trong các cơ quan, tổ chức ở nước ta tương đối phổ biến, nhưng do nhiều nguyên nhân, nên việc xử lý hành vi này bằng hình sự lại rất hiếm, người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lập quỹ trái phép khi hành vi lập quỹ trái phép đi liền với các hành vi phạm tội khác như tội tham ô, tội cố ý làm trái, thiếu trách nhiệm... Nếu chỉ có hành vi lập quỹ trái phép thì rát khó phát hiện, nhất là trong điều kiện hiên nay. Tội lập quỹ trái phép là tội phạm đã được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999, nói chung không có những thay đổi lớn vì tội phạm này mới được sửa đổi, bổ sung vào ngày 10-5-1997, nên trong quá trình soạn thảo và thông qua Bộ luật hình sự năm 1999, nhà làm luật chỉ sửa đổi, bổ sung một số điểm cho phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội và tương xứng với các tội phạm khác như khung hình phạt quy định ở khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khung hình phạt quy định ở các khoản này của Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1985; bổ sung loại hình phạt cải tạo không giam giữ vào khoản 1 của điều luật và hình phạt bổ sung quy định ngay cùng một điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này cũng tương tự như chủ thể của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng xem các dấu hiệu về chủ thế của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng Nếu hành vi lập quỹ trái phép chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội phải là người đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Tội phạm này chỉ áp dụng đối với người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-chính trị và các tổ chức khác, không áp dụng đối với những người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc các tổ chức có tính chất tư nhân khác. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này chính là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước về lập ra các loại quỹ. Đối tượng tác động của tội phạm này là tiền hoặc tài sản mà người phạm tội dùng vào việc lập quỹ trái phép. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Cũng tương tự với hành vi khách quan của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, người phạm tội lập quỹ trái phép cũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhưng là để lập quỹ trái phép chứ không phải làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế một cách chung chung. Cũng như trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong các tội phạm khác, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để lập quỹ trái phép là trường hợp người có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để lập quỹ trái phép xem lợi dụng chức vụ, quyền hạn ở các tội phạm khác đã phân tích ở trên. Lập quỹ trái phép là lập ra một quỹ, còn gọi là quỹ “đen” trái với quy định của Nhà nước về việc lập quỹ trong các cơ quan, tổ chức. Ví dụ Dùng tiền ngân sách hoặc các khoản thu khác lập ra quỹ ngoài sự kiểm soát của Nhà nước để chi tiêu riêng cho cơ quan, tổ chức mình. Sử dụng quỹ đó gây hậu quả nghiêm trọng là lấy tiền hoặc tài sản trong quỹ mà trước đó người phạm tội đã lập trái phép chi tiêu hoặc dùng vào những việc mà cơ quan, tổ chức có nhu cầu. Việc sử dụng quỹ vào những mục đích khác nhau, không phân biệt mục đích của việc sử dụng đó là bất hợp pháp hay hợp pháp, thậm chí sử dụng vào việc từ thiện. Tuy nhiên, việc sử dụng tiền đó phải gây hậu quả nghiêm trọng xem hậu quả của tội phạm. Nếu mới lập quỹ trái phép nhưng chưa sử dụng quỹ đó thì hành vi lập quỹ trái phép chưa cấu thành tội phạm dù số lượng tiền quỹ trái phép đó bao nhiêu. b. Hậu quả Đối với tội lập quỹ trái phép, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng hậu quả phải là nghiêm trọng, nếu hậu quả chưa nghiêm trọng thì người phạm tội phải là người đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, hậu quả nghiêm trọng là hậu quả do hành vi sử dụng quỹ, chứ không phải là hành vi lập quỹ trái cũng là đặc điểm riêng của tội phạm này mà các tội phạm khác không có. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi sử dụng tiền hoặc tài sản trong quỹ trái phép gây ra là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản hoặc những thiệt hại khác cho xã hội. Hiện nay do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi sử dụng quỹ trái phép gây ra, nên có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội lập quỹ trái phép, nhà làm luật còn quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, đó là Giá trị quỹ trái phép phải từ đồng trở lên, thì mới cấu thành tội lập quỹ trái phép. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Lỗi của người phạm tội lập quỹ trái phép là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là trái phép, biết rõ hành vi sử dụng quỹ đó là gây hậu quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ, mục đích của người phạm tội này không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội lập quỹ trái phép thường vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội lập quỹ trái phép không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 166 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội lập quỹ trái phép, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. So với tội lập quỹ trái phép quy định tại các Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, và nếu so sánh giữa Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội lập quỹ trái phép, được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 166 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc áp dụng dưới một năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tù đến 5 năm. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. 2. Phạm tội lập quỹ trái phép thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật a. Dùng thủ đoạn xảo quyệt để trốn tránh việc kiểm soát Dùng thủ đoạn xảo quyệt lập quỹ trái phép để trốn tránh việc kiểm soát, là trường hợp người phạm tội có những việc làm gian dối một cách thâm hiểm, khó mà lường được, nếu không có trình độ thì khó có thể phát hiện; việc kiểm tra kiểm soát của các cơ quan chức năng gặp khó khăn như quỹ trái phép được hạch toán chung với các quỹ khác, dành một phần quỹ trái phép sử dụng vào mục đích từ thiện để đánh lừa dư luận. b. Để thực hiện tội phạm khác Lập quỹ trái phép để thực hiện tội phạm khác là trường hợp sử dụng quỹ trái phép làm phương tiện thực hiện một tội phạm như để đưa hối lộ, để buôn lậu, để kinh doanh trái phép, để cho vay lãi nặng, để buôn bán hàng cấm, để đánh bạc, để thuê người khác phạm tội. Điều luật chỉ quy định để thực hiện tội phạm khác, nên chỉ cần xác định người phạm tội có ý định sử dụng quỹ trái phép để thực hiện tội phạm khác, cong tội phạm khác đó đã thực hiện được hay chưa không phải là yếu tố bắt buộc. Ví dụ Bùi Quốc H là giám đốc Công ty ra lệnh cho thủ quỹ trích 100 triệu đồng trong quỹ trái phép quỹ đen để đưa hối lộ cho Phạm Xuân Đ phó chủ tịch huyện, nhưng việc đưa hối lộ chưa thực hiện được thì vụ án bị phát hiện. c. Quỹ trái phép có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng Trường hợp phạm tội này không khó xác định, chỉ cần căn cứ vào giá trị quỹ trái phép mà người phạm tội lập ra có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng là người phạm tội bị truy cứu theo điểm c khoản 2 của điều luật. Giá trị quỹ trái phép từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng bao gồm cả số quỹ đã được sử dụng vào những mục đích khác nhau, chứ không phải số quỹ còn tồn khi kiểm tra phát hiện. d. Gây hậu quả rất nghiêm trọng. Đây là trường hợp do hành vi lập quỹ trái phép gây ra những thiệt hại rất nghiêm trọng đến tài sản, tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người và những thiệt hại khác. Hiện nay chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lập quỹ trái phép gây ra. Tuy nhiên, có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, và nếu so sánh giữa Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 166 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới ba năm tù hoặc chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật a. Quỹ trái phép có giá trị từ năm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng Khi xác định trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm c khoản 2 của điều luật, chỉ cần căn cứ vào giá trị quỹ trái phép, kể cả số quỹ đã được sử dụng vào những mục đích khác nhau. Nếu quỹ trái phép có giá trị từ năm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng là người phạm tội bị truy cứu theo khoản 3 của điều luật. b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng quy định tại điểm d khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ hậu quả do hành vi lập quỹ trái phép gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng. Hiện nay chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lập quỹ trái phép gây ra, nên có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có thể bị phạt tù từ sáu năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 3 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn và nếu so sánh giữa Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 3 Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 166 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới sáu năm tù, nhưng không được dưới ba năm tù. Nếu người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười năm tù. 4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật Khoản 4 điều luật chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là Quỹ trái phép có giá trị từ một tỷ đồng trở lên. Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 và điểm a khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ giá trị của quỹ trái phép quy định tại khoản 4 của điều luật là từ một tỷ đồng trở lên. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 4 Điều 166 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới tám năm tù, nhưng không được dưới sáu năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù. 5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 5 Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm loại hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, nhưng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định nhẹ hơn Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985. Vì vậy, đối với người phạm tội lập quỹ trái phép trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không được áp dụng hình phạt tiền, nếu áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định thì được áp dụng khoản 4 Điều 166 Bộ luật hình sự năm 1999. 15. TỘI BÁO CÁO SAI TRONG QUẢN LÝ KINH TẾ Điều 167. Tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế 1. Người nào vì vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác mà báo cáo với cơ quan có thẩm quyền những số liệu, tài liệu rõ ràng không đúng sự thật gây hậu quả nghiêm trọng cho việc xây dựng hay thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội của Nhà nước hoặc đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định Nghĩa Báo cáo sai trong quản lý kinh tế là hành vi của người vì vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác mà báo cáo với cơ quan có thẩm quyền những số liệu, tài liệu rõ ràng không đúng sự thật gây hậu quả nghiêm trọng cho việc xây dựng hay thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội của Nhà nước hoặc đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Hành vi báo cáo sai trong quản lý kinh tế cũng như trong các lĩnh vực quản lý xã hội khác xảy ra tương đối phổ biến, ở mọi nơi mọi lúc, nhưng việc phát hiện và xử lý hầu như không được các cơ quan có thẩm quyền quan tâm. Ngay đối với hành vi báo cáo trong quản lý kinh tế cũng xảy ra khá phổ biến, nhưng việc xử lý nói chung và xử lý bằng biện pháp hình sự hầu như rất ít xảy ra. Ngoài trường hợp báo cáo sai trong quản lý kinh tế của ban giám đốc Công ty dệt Nam Định bị truy cứu trách nhiệm hình sự cùng với nhiều tội khác, còn lại các hành vi báo cáo sai trong quản lý kinh tế khác đều không bị truy cứu trách nhiệm hình sự cùng lắm là bị xử lý hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật. Tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế là tội phạm đã được quy định tại Điều 176 Bộ luật hình sự năm 1985. Do thực tiễn xét xử ít, nên đối với tội phạm này khi soạn thảo Bộ luật hình sự năm 1999 nhà làm luật không có sửa đổi, bổ sung lớn mà chỉ sửa đổi, bổ sung một số vấn đề có tính chất học thuật cho phù hợp với các tội phạm khác và cơ cấu mới của Bộ luật hình sự. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn những người có trách nhiệm trong việc quản lý kinh tế mới có thể trở thành chủ thể của tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế. Những người khác không có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực quản lý kinh tế cũng có thể trở thành củ thể của tội phạm này, nhưng họ chỉ có thể là đồng phạm. Nếu hành vi báo cáo sai trong quản lý kinh tế chưa gây hậu quả nghiêm trọng cho việc xây dựng hay thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội của Nhà nước thì người phạm tội phải là người đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này chính là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước về báo cáo trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Đối tượng tác động của tội phạm này là những số liệu, tài liệu trong lĩnh vực quản lý kinh tế. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là báo cáo sai, nhưng với nhiều hình thức khác nhau như bằng miệng, bằng văn bản hoặc bằng các hình thức khác E. mail, fax, điện thoại, điện tín, telex... . Báo cáo sai là báo cáo không đúng với sự thật vốn có của nó. Việc báo cáo sai có thể báo cáo bớt hoặc báo cáo tăng số liệu, tài liệu như lỗ thì báo cáo có lãi, lãi it báo cáo lãi nhiều, làm ít báo cáo nhiều, thiệt hại ít báo cáo thiệt hại nhiều hoặc ngược lại, hàng xấu kém phẩm chất báo là hàng tốt, được mùa báo cáo mất mùa hoặc ngược Nói chung, trong lĩnh vực quản lý kinh tế có nhiều vấn đề mà người có trách nhiệm báo cáo sai, tuỳ thuộc vào động cơ,mục đích của người phạm tội. b. Hậu quả Đối với tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng đó là hậu quả phải là nghiêm trọng cho việc xây dựng hay thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội của Nhà nước, chứ không phải hậu quả chung chung như đối với một số tội phạm khác. Đây cũng là đặc điểm để phân biệt hậu quả nghiêm trọng do hành vi báo cáo sai trong quản lý kinh tế với hậu quả nghiêm trọng do các hành vi phạm tội khác gây ra. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng cho việc xây dựng hay thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội của Nhà nước, thì người phạm tội phải là người đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội phạm. Hậu quả nghiêm trọng cho việc xây dựng hay thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội của Nhà nước do hành vi báo cáo sai trong quản lý kinh tế gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng về việc xây dựng kế hoạch kinh tế-xã hội hoặc là những thiệt hại nghiêm trọng về việc thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội. Hiện nay do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng cho việc xây dựng hay thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội của Nhà nước do hành vi báo cáo sai trong quản lý kinh tế gây ra và cũng không thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng cho việc xây dựng hay thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội của Nhà nước do hành vi báo cáo sai tỏng quản lý kinh tế gây nên được. Đây là loại hậu quả có tính đặc thù cần có hướng dẫn cụ thể, vì loại hậu quả này khó có thể xác định bằng những thiệt hại vật chất, nó là thiệt hại về việc xây dựng hoặc thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội, chứ không phải là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản... Các cơ quan chức năng sẽ có hướng dẫn chính thức thế nào là hậu quả nghiêm trọng cho việc xây dựng hay thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội của Nhà nước do hành vi báo cáo sai trong quản lý kinh tế gây ra, nhưng theo chúng tôi hậu quả nghiêm trọng cho việc xây dựng hay thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội của Nhà nước do hành vi báo cáo sai trong quản lý kinh tế gây ra là làm cho việc xây dựng hoặc thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội không đúng và từ việc xây dựng hoặc thực hiện kế hoạch không đúng dẫn đến những thiệt hại nghiêm trọng về tài sản có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên hoặc những thiệt hại nghiêm trọng phi vật chất khác cho xã hội. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế, nhà làm luật không quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Lỗi của người phạm tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là trái phép, biết rõ việc báo cáo đó là không đúng sự thật, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho việc xây dựng hoặc thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu không chứng minh được người phạm tội vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà báo cáo sai trong quản lý kinh tế dù có gây hậu quả nghiêm trọng cho việc xây dựng hoặc thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội của Nhà nước thì cũng chưa cấu thành tội phạm. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ Đối với tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế, nhà làm luật chỉ quy định một khung hình phạt và cũng là cấu thành cơ bản của tội phạm này. Người phạm tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế quy định tại các Điều 176 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản Điều 176 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội. Cũng như đối với các tội phạm khác, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt ba tháng thù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tù đến 3 năm. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. Ngoài hình phạt chính, người phạm tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Nếu so với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 2 Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, nên người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì áp dụng khoản 2 Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. 16. TỘI QUẢNG CÁO GIAN DỐI Điều 168. Tội quảng cáo gian dối 1. Người nào quảng cáo gian dối về hàng hoá, dịch vụ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa Quảng cáo gian dối là quảng cáo không đúng với tên gọi, chất lượng, giá trị và giá trị sử dụng thật của hàng hoá gây hậu quả nghiêm trọng. Tội quảng cáo gian dối là tội phạm mới mà Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Do sự phát triển của xã hội, nền kinh tế thị trường cần có nhu cầu điều chỉnh những hành vi quảng cáo hàng hoá, nên Nhà nước coi hành vi quảng cáo gian dối là hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị xử lý bằng biện pháp hình sự. Hiện nay, ở mọi nơi, trên đường phố, nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi, nghỉ mát... hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng, đều có hoạt động quảng cáo hàng hoá cho các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nào khi quảng cáo hàng hoá của mình cũng đều trung thực, nhiều trường hợp để quảng cáo hàng hoá của mình, khi quảng cáo đã nói xấu hàng hoá của doanh nghiệp khác, cũng không ít trường hợp Toà án đã phải xét xử những tranh chấp về quảng cáo gian dối. Ví dụ Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan đăng quảng cáo trên các báo tuổi trẻ, Sài Gòn Giải Phóng, Phụ Nữ, Người Lao Động, Sài Gòn Tiếp Thị với nội dung nói đến tính năng của hai sản phẩm nệm lò so nguyên liệu sản xuất không ưu việt nên chất lượng giảm dần theo thời gian, đọ đàn hồi của lò so cao dễ bị gãy, đọ đàn hồi thấp nệm dễ bị xẹp... và nệm nhựa tổng hợp dẻo nên không đàn hồi, mau bị xẹp, trong khi KymDan không sản xuất hai loại sản phẩm này là hành vi quảng cáo nói xấu hàng hoá của người khác, vi phạm Điều 192 luật thương mại và Điều 6 nghị định 194 về hoạt động quảng cáo. Toà án đã xử buộc Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan phải bồi thường và xin lỗi. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này tuy không phải là chủ thể đặc biệt, nhưng chủ yếu là những người chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở sản xuất. Tuy nhiên, những người khác cũng có thể trở thành chủ thể, nếu họ thực hiện việc quảng cáo gian dối hàng hoá của chủ doanh nghiệp theo yêu cầu của chủ doanh nghiệp. Nếu hành vi quảng cáo gian dối chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này chính là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước về quảng cáo hàng hoá. Đối tượng tác động của tội phạm này là hình thức, nội dung tin tức mà người phạm tội đã quảng cáo. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội quảng cáo gian dối chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là quảng cáo gian dối, nhưng với nhiều thủ đoạn, hình thức khác nhau như Vẽ tranh, chụp ảnh, quay phim, ghi âm, đăng báo, đưa tin trên đài phát thanh, truyền hình, đặt các phương tiện quảng cáo khác ở nơi công Quảng cáo gian dối là quảng cáo không đúng với sự thật vốn có của hàng hoá mà doanh nghiệp hoặc cơ sở sản xuất ra nó. Thông thường quảng báo gian dối là hàng xấu, kém chất lượng nhưng lại nói rằng đó là hàng tốt, chất lượng cao. Ngoài ra, hành vi quảng cáo gian dối còn thể hiện ở chỗ, nói xấu hàng hoá của doanh nghiệp khác để làm nền quảng cáo cho hàng hoá của mình, quảng cáo không đúng công dụng của hàng hoá, không nếu những điều cần tránh khi sử dụng hàng Khi xác định hành vi quảng cáo gian dối cần căn cứ vào các quy định của Nhà nước về quảng cáo như Điều Điều 192 luật thương mại và Điều 6 nghị định 194 về hoạt động quảng cáo, đồng thời phải căn cứ vào từng loại hàng hoá mà pháp luật quy định nội dung quảng cáo bao gồm những vấn đè gì. Ví dụ Khi quảng cáo hàng hoá là mỹ phẩm thì phải phải có đủ các thông tin sau Tên mỹ phẩm; thành phần các hoạt chất chính quyết định đén tác dụng của mỹ phẩm; tác dụng nếu các tác dụng chủ yếu củ mỹ phẩm; cách dùng hướng dẫn cách dùng đúng; những điều cần tránh khi sử dụng nếu có và tên địa chỉ của đơn vị sản xuất mỹ phẩm. Những mỹ phẩm không dược quảng cáo như mỹ phẩm dùng dưới da; mỹ phẩm mà cách dùng có khả năng gây tổn thương mắt, tai, niêm mạc; mỹ phẩm khi sử dụng phải có hướng dẫn của thấy thuốc. Không được có những hành vi sau trong quảng cáo mỹ phẩm - Quảng cáo những mỹ phẩm chưa được lưu hành tại Việt Nam; - Quảng cáo những tác dụng chưa được chứng minh; - Lợi dụng danh nghĩa và địa vị cua tổ chức y tế, cán bộ y tế, uy tín cá nhân, các loại hoạt động quảng cáo mỹ phẩm; - Hình thức quảng cáo không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam; - Dùng câu chữ hình ảnh hoặc âm thanh gây nên các ấn tượng kiểu sau đây cho công chúng Mỹ phẩm này là số một, là tốt hơn cả; sử dụng mỹ phẩm này là biện pháp tốt nhất hay mỹ phẩm này là hoàn toàn vô hại, không có tác dụng phụ không gây thích ứng... b. Hậu quả Đối với tội quảng cáo gian dối, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng, thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì mới cấu thành tội phạm. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi quảng cáo gian dối gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng cho tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản cho con người, cho cơ quan, tổ chức và những thiệt hại nghiêm trọng khác cho xã hội. Hiện nay do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi quảng cáo gian dối gây ra nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi quảng cáo gian dối gây ra. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội quảng cáo gian dối, nhà làm luật không quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Lỗi của người phạm tội quảng cáo gian dối là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi quảng cáo của mình là gian dối, trái phép trái với quy định của pháp luật về quảng cáo, gây ra hậu quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng người phạm tội quảng cáo gian dối thường vì động cơ vụ lợi muốn bán được nhiều hàng hoá . B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ Đối với tội quảng cáo gian dối, nhà làm luật chỉ quy định một khung hình phạt và cũng là cấu thành cơ bản của tội phạm này. Người phạm tội quảng cáo gian dối có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội quảng cáo gian dối, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến 3 năm. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. Ngoài hình phạt chính, người phạm tội quảng cáo gian dối thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. 17. TỘI CỐ Ý LÀM TRÁI QUY ĐỊNH VỀ PHÂN PHỐI TIỀN, HÀNG CỨU TRỢ Điều 169. Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm a Có tổ chức; b Phạm tội nhiều lần; c Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. Định Nghĩa Cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để phân phối tiền hàng cứu trợ không đúng với quy định của Nhà nước. Tội cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ đã dược quy định tại Điều 178 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, Điều 178 quy định tội danh là “vi phạm những nguyên tắc, chính sách, chế đọ về phân phối” đối tượng rộng hơn. Nay Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ còn quy định hành vi làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ, còn những vấn đề khác không thuộc đối tượng điều chỉnh của tội phạm này. Có thể nói, tội phạm này gần như là tội phạm mới cả về tên gọi, nội dung và cấu tạo. Tội phạm này quy định hai hành vi phạm tội, đó là Cố ý làm trái quy định về phân phối tiền cứu trợ và cố ý làm trái quy định về phân phối hàng cứu trợ. Do đó, khi định tội cần căn cứ vào hành vi cụ thể mà người phạm tội thực hiện để định tội danh cho chính xác. Nếu người phạm tội chỉ thực hiện hành vi cố ý làm trái quy định về phân phối tiền cứu trợ thì định tội là “Cố ý làm trái quy định về phân phối tiền cứu trợ” mà không định tội là “Cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ”, nếu người phạm tội thực hiện cả hai hành vi cố ý làm trái quy định về phân phối tiền cứu trợ và cố ý làm trái quy định về phân phối hàng cứu trha, thì định tội là “Cố ý làm trái quy định về phân phối tiền và hàng cứu trợ”. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, những người khác cũng có thể trở thành chủ thể, nhưng họ chỉ là đồng phạm trong trường hợp vụ án có đồng phạm. Nếu hành vi cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chưa phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều luật không quy định trường hợp chưa gây hậu quả nghiêm trọng mà người phạm tội đã bị xâm phạm hành chính hoặc đã bị kết án về hành vi này mà còn vi phạm thì bị coi là tội phạm. Đây cũng là đặc điểm khác với một số tội phạm khác quy định trong chương này. Tuy nhiên, việc nhà làm luật không quy định trường hợp cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ chưa gây hậu quả nghiêm trọng mà người phạm tội đã bị xâm phạm hành chính hoặc đã bị kết án về hành vi này mà còn vi phạm là tội phạm theo chúng tôi là chưa thoả đáng, vì tiền, hàng cứu trợ là để cứu giúp những người bị hoạn nạn, gặp khó khăn, cần phải xử lý nghiêm khắc hơn hành vi có ý làm trái khác. Hy vọng rằng, khi có điều kiện sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự nhà làm luật sẽ quan tâm đến vấn đề này. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này chính là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước về quản lý tiền, hàng cứu trợ. Đối tượng tác động của tội phạm này là tiền, hàng dùng vào việc cứu trợ. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là làm trái quy định về phân phối, nhưng với nhiều phương thức khác nhau như Không phân phối hoặc phân phối không đúng đối tượng người mà theo quy định được phân phối nhưng không được phân phối, người mà theo quy định không được phân phối lại được phân phối; phân phối không đúng số tiền hoặc số hàng cứu trợ phân phối thiếu hoặc thừa số tiền hoặc hàng cứu trợ. Thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện là lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế xem lợi dụng chức vụ, quyền hạn ở các tội phạm khác đã phân tích ở trên. b. Hậu quả Đối với tội cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng, thì người có hành vi cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ chưa cấu thành tội phạm. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng cho tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản cho con người, cho cơ quan, tổ chức và những thiệt hại nghiêm trọng khác cho xã hội. Hiện nay do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ gây ra nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ gây ra. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ, còn dấu hiệu khách quan khác như Quy định về việc phân phối. Những quy định này không nhất thiết phải là những quy định của Nhà nước mà có thể chỉ là những quy định của cơ quan, tổ chức, thậm chí của một doanh nghiệp tư nhân. Ví dụ Một doanh nghiệp tư nhân thông qua tổ chức từ thiện X chuyển 40 tấn gạo cho đồng bào bị lũ lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng các nhân viên trong tổ chức từ thiện X chỉ chuyển 20 tấn gạo cho đồng bào vùng lũ lụt ở Đồng băng sông Cửu Long. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Tên tội danh đã thể hiện lỗi của người phạm tội cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi phân phối tiền, hàng cứu trợ của mình là trái quy định về phân phối hàng cứu trợ, gây ra hậu quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, người phạm tội cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ có thể có nhiều dộng cơ khác nhau như vì thành tích cá nhân, đơn vị mình hoặc vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 169 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ, người phạm tội có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. So với tội vi phạm những nguyên tắc, chính sách, chế độ về phân phối quy định tại các Điều 178 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, nhưng nếu so sánh giữa Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1999 với Điều 178 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nặng hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ, được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản Điều 178 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội. Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt Toà án cần đối chiếu khoản 1 Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 169 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ, chỉ áp dụng hình phạt tù trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật a. Có tổ chức Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. b. Phạm tội nhiều lần Cũng như các trường hợp phạm tội nhiều lần khác, cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ nhiều lần là có từ hai lần cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ trở lên và mỗi lần đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng Trường hợp phạm tội này, nhà làm luật quy định hai trường hợp phạm tội cùng chung một điểm có tính chất, mức độ nghiêm trọng khác nhau. Đây cũng là vấn đề về kỹ thuật lập pháp, lẽ ra nhà làm luật chỉ cần quy định gây hậu quả rất nghiêm trọng là đủ, nếu như gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng không phải là tình tiết định khung hình phạt ở khung hình phạt nặng hơn. Nghiên cứu các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự chúng ta cũng thường gặp tình trạng tương tự. Đến nay, chưa có hướng dẫn chính thức hành vi cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ gây ra. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng. So với Điều 178 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1999 là khung hình phạt mới. Vì vậy, hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 2 Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 169 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới một năm tù hoặc chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ hay phạt tiền. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến năm năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với tội vi phạm những nguyên tắc, chính sách, chế độ về phân phối, thì khoản 3 Điều 169 Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định hình phạt tiền, còn hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định chỉ quy định từ một năm đến năm năm. Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt này từ hai năm đến năm năm. 18. TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ CẤP VĂN BẰNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP Điều 170. Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp 1. Người nào có thẩm quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ mà vi phạm quy định của pháp luật về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm a Có tổ chức; b Phạm tội nhiều lần; c Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. Định Nghĩa Vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là hành vi của người có thẩm quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ đã vi phạm quy định của pháp luật về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Đây là tội phạm mới do yêu cầu của tình hình phát triển kinh tế-xã hội. Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định tội phạm này. Vì vậy, hành vi vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì không bị coi là tội phạm. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có thẩm quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, những người khác cũng có thể trở thành chủ thể, nhưng họ chỉ là đồng phạm trong trường hợp vụ án có đồng phạm. Nếu người vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp chưa bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này thì chưa phải chịu trách nhiệm hình sự. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này chính là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước về quản lý trong lĩnh vực cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Đối tượng tác động của tội phạm này là văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nhiệp. Nếu là văn bằng bảo hộ về các lĩnh vực khác thì không thuộc đối tượng của tội phạm này. Văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là văn bằng thật, nếu đó là văn bằng giả thì không thuộc đối tượng của tội phạm này mà tuỳ trường hợp người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức hoặc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Hành vi khách quan của người phạm tội này chính là hành vi vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, tính chất, mức độ vi phạm khác nhau nên việc xử lý cũng khác nhau, nếu hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính và gây hậu quả nghiêm trọng thì mới bị coi là hành vi phạm tội. Hành vi vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp không đúng pháp luật xảy ra nhiều và không ít trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng nhưng việc xử lý về hình sự lại rất ít, có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do tội phạm này mới được quy định, mặt khác các quy định của pháp luật về việc cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp chưa cụ thể, rõ ràng. Hành vi vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp không đúng pháp luật có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như Sản phẩm, hàng hoá không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ quyền sơ hữu công nghiêp nhưng vẫn được cấp hoặc cố tình không cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho các đơn vị hoặc doanh nghiệp có đủ điều kiện, hoặc cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp không đúng thủ b. Hậu quả Đối với tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng, thì người có hành vi vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp chưa cấu thành tội phạm. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng cho tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản cho con người, cho cơ quan, tổ chức và những thiệt hại nghiêm trọng khác cho xã hội. Hiện nay do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp gây ra nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, còn dấu hiệu khách quan khác như Quy định về việc cấp văn bằng sở hữu công nghiệp. Những quy định này phải là những quy định của Nhà nước thường là của cơ quan quản lý vè việc cấp văn bằng sở hữu công nghiệp. Vì vậy khi xác định hành vi vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, cần phải căn cứ vào những quy định của Nhà nước về việc cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, gây ra hậu quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, người phạm tội tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp có thể có nhiều động cơ khác nhau như vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt dưới 6 tháng tù. Nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt ba năm tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật a. Có tổ chức Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. b. Phạm tội nhiều lần Cũng như các trường hợp phạm tội nhiều lần khác, tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nhiều lần là có từ hai lần vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và mỗi lần đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng Nhà làm luật quy định hai trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng trong cùng một khung hình phạt. Đây cũng là vấn đề về kỹ thuật lập pháp, lẽ ra nhà làm luật chỉ cần quy định gây hậu quả rất nghiêm trọng là đủ, nếu như gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng không phải là tình tiết định khung hình phạt ở khung hình phạt nặng hơn. Nghiên cứu các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự chúng ta cũng thường gặp tình trạng tương tự. Đến nay, chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp gây ra. Vì vậy, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp gây ra. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 170 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới hai năm tù hoặc chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. 19. TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP Điều 171. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 1. Người nào vì mục đích kinh doanh mà chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác đang được bảo hộ tại Việt Nam gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm a Có tổ chức; b Phạm tội nhiều lần; c Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác đang được bảo hộ tại Việt Nam. Đây cũng là tội phạm mới do yêu cầu của tình hình phát triển kinh tế-xã hội. Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định tội phạm này. Vì vậy, hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì không bị coi là tội phạm. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, nhưng chủ yếu đối với người sản xuất hoặc tiêu dùng hàng hoá. Nếu hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa xoá án tích mà còn vi phạm thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này chính là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước về quản lý trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Đối tượng tác động của tội phạm này là sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác đang được bảo hộ tại Việt Nam. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Hành vi khách quan của người phạm tội này chính là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, tính chất, mức độ xâm phạm khác nhau nên việc xử lý cũng khác nhau, nếu hành vi xâm phạm chưa bị xử phạt hành chính và chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chưa bị coi là hành vi phạm tội. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác đang được bảo hộ tại Việt Nam. Chiếm đoạt là dùng các thủ đoạn khác nhau để chuyển dịch một cách trái phép sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác đang được bảo hộ tại Việt Nam của người khác thành sở hữu của mình như Cướp, cướp giật, cưỡng đoạt, bắt cóc nhằm chiếm đoạt, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, lừa đảo hoặc lạm tín nhiệm chiếm Sử dụng trái phép là tự ý khai thác những lợi ích của những sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác đang được bảo hộ tại Việt Nam mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu. b. Hậu quả Đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng, thì người có hành vi xâm phạm phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa xoá án tích mà còn vi phạm thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng cho tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản cho con người, cho cơ quan, tổ chức và những thiệt hại nghiêm trọng khác cho xã hội. Hiện nay do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, còn dấu hiệu khách quan khác như các quy định của Nhà nước về sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác đang được bảo hộ tại Việt Nam. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, gây ra hậu quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng mục đích của người phạm tội lại là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm đó là vì mục đích kinh doanh. Nếu hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp không vì mục đích kinh doanh mà vì mục đích khác thì không thuộc trường hợp phạm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng và chỉ có hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt cao nhất của khung hình phạt. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng mức thấp nhất của hình phạt tiền. Nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật a. Có tổ chức Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. b. Phạm tội nhiều lần Cũng như các trường hợp phạm tội nhiều lần khác, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nhiều lần là có từ hai lần xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và mỗi lần đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng Cũng tương tự như một số trường hợp trong tội phạm khác, nhà làm luật quy định hai trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng trong cùng một khung hình phạt. Đến nay, chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra. Vì vậy, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 170 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới sáu tháng tù hoặc chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến ba năm tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. 20. TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGHIÊN CỨU, THĂM DÒ, KHAI THÁC TÀI NGUYÊN Điều 172. Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên 1. Người nào vi phạm các quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên trong đất liền, hải đảo, nội thuỷ, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và vùng trời của Việt Nam mà không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến một tỷ đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Định Nghĩa vi phạm các quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên là hành vi nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên trong đất liền, hải đảo, nội thuỷ, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và vùng trời của Việt Nam mà không có giấy phép hoặc không đúng với nội d Tội vi phạm các quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên là tội phạm đã được quy định tại Điều 179 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, so với Điều 179 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 172 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới như Không quy định hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về bảo vệ tài nguyên; Tên tội danh cũng không chỉ đích danh vị trí “trong lòng đất, trong các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam”; Quy định thêm vị trí vi phạm là vùng trời, thay cụm từ “trong lòng đất” bằng cụm từ “trong đất liền, hải đảo”; Bổ sung một số dấu hiệu khách quan như không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép, gây hậu quả nghiêm trọng; Bỏ quy định “những dụng cụ, phương tiện để phạm tội có thể bị tịch thu. những vật do phạm tội mà có đều bị tịch thu” trong điều luật, vì việc tịch thu phương tiện phạm tội và tài sản do phạm tội mà có đã được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 172 Bộ luật hình sự năm 1999 được cấu tạo thành hai khung hình phạt, có mức hình phạt nặng hơn so với Điều 179 Bộ luật hình sự năm 1985 và hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng một điều luật. Điều 172 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nhiều hành vi phạm tội khác nhau, vì vậy tuỳ từng trường hợp cụ thể mà định tội cho phù hợp. Ví dụ nếu người phạm tội chỉ vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác tài nguyên thì chỉ định tội là “vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác tài nguyên” mà không định tội đầy đủ như điều luật quy định. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt. Tuy nhiên, người phạm tội này chủ yếu là những người có trách nhiệm nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước về quản lý trong lĩnh vực nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên. Đối tượng tác động của tội phạm này là tài nguyên như Quặng, rừng, các nguồn năng lượng... Tài nguyên chỉ là những sản phẩm tự nhiên chưa qua chế biến hoặc qua quá trình sản xuất. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Hành vi khách quan của người phạm tội này chính là hành vi vi phạm quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên trong đất liền, hải đảo, nội thuỷ, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và vùng trời của Việt Nam. Theo quy định của điều luật thì người phạm tội có thể thực hiện các hành vi sau Vi phạm quy định của Nhà nước về nghiên cứu tài nguyên; Vi phạm quy định của Nhà nước về thăm dò tài nguyên; Vi phạm quy định của Nhà nước về khai thác tài nguyên. Nếu tính cả địa điểm vi phạm, thì người phạm tội thực hiện một hành vi vi phạm ở một trong các địa điểm và mối địa điểm đó cũng được coi là một hành vi khách quan như Vi phạm quy định của Nhà nước về nghiên cứu tài nguyên trong lòng đất; Vi phạm quy định của Nhà nước về nghiên cứu tài nguyên ở hải đảo; Vi phạm quy định của Nhà nước về nghiên cứu tài nguyên vùng nội thuỷ; Vi phạm quy định của Nhà nước về nghiên cứu tài nguyên vùng lãnh hải; Vi phạm quy định của Nhà nước về nghiên cứu tài nguyên vùng đặc quyền kinh tế; Vi phạm quy định của Nhà nước về nghiên cứu tài nguyên thềm lục địa; Vi phạm quy định của Nhà nước về nghiên cứu tài nguyên vùng trời; Theo cách xác định trên, chúng ta thấy người phạm tội có thể thực hiện tới 21 hành vi khách quan khác nhau, nên khi xác định hành vi phạm tội, cần phải căn cứ vào hành vi cụ thể mà người phạm tội thực hiện là hành vi khách quan nào để định tội cho chính xác. Ví dụ người phạm tội chỉ thực hiện hành vi vi phạm quy định của Nhà nước về nghiên cứu tài nguyên trong lòng đất, thì chỉ định tội “Vi phạm quy định của Nhà nước về nghiên cứu tài nguyên trong lòng đất” mà không định tội danh đầy đủ như điều luật quy định. Hành vi vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên được thực hiện bằng nhiều hình thức và thủ đoạn khác nhau như lợi dụng việc vận chuyển qua vùng trời, vùng biển, đất liền hoặc hải đảo của Việt Nam để nghiên cứu, thăm dò tài nguyên; lợi dụng việc xây dựng những công trình để khai thác tài Căn cứ để xác định hành vi có vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên hay không là giấy phép do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp. Nếu không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép là vi phạm. b. Hậu quả Đối với tội vi phạm các quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng, thì người có hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên chưa cấu thành tội phạm. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng cho tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản cho con người, cho cơ quan, tổ chức và những thiệt hại nghiêm trọng khác cho xã hội. Hiện nay do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội vi phạm các quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên, nhà làm luật còn quy định các dấu hiệu khách quan khác như Địa điểm phạm tội trong đất liền, hải đảo, nội thuỷ, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và vùng trời của Việt Nam; các quy định của Nhà nước về việc nghiên cứu, thăm dò khai thác tài nguyên. Vì vậy, khi xác định hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên cần chú ý đến địa điểm mà người phạm tội thực hiện cũng như các quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên được thể hiện bằng văn bản giấy phép. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên, gây ra hậu quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng chủ yếu vì động cơ vụ lợi. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 172 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác tài nguyên, người phạm tội có thể bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến một tỷ đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 172 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cảnh cáo, phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ. Chỉ áp dụng hình phạt tù nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật Cũng tương tự như một số trường hợp trong tội phạm khác, nhà làm luật quy định hai trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng trong cùng một khung hình phạt. Đến nay, chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên gây ra. Vì vậy, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên gây ra. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ hai đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 1 của điều luật và so với Điều 179 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì khoản 2 của điều luật có mức hình phạt nặng hơn nhiều. Đây cũng là đặc điểm ít thấy trong các tội phạm khác. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 172 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ gây hậu quả rất nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới hai năm tù hoặc chuyển sang loại hình phạt tiền. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mươi năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định vè hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 3 Điều 172 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, nên không áp dụng đối với người phạm tội thực hiện hành vi trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý 21. TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI Điều 173. Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 1. Người nào lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ ba mươi triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ hai năm đến bảy năm a Có tổ chức; b Phạm tội nhiều lần; c Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng. Định nghĩa Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là hành vi lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai. Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là tội phạm được tách từ tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai tại Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1985. Nhà làm luật quy định hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là tội phạm độc lập là xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong thực tiễn xét xử. So với Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 173 Bộ luật hình sự năm 1999 không có sửa đổi, bổ sung nhiều, chỉ sửa đổi, bổ sung một vài thuật ngữ như thay từ “xử lý hành chính” bằng “xử phạt hành chính về hành vi này”; bổ sung thêm tình tiết “đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”; bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính; bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt ở khoản 2 của điều luật; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt. Tuy nhiên, người phạm tội này chủ yếu là những người sử dụng đất đai. Nếu hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người có hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa xoá án tích mà còn vi phạm thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực về sử dụng đất đai. Đối tượng tác động của tội phạm này là đất đai 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Hành vi khách quan của người phạm tội này là hành vi lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai. Theo quy định của điều luật thì người phạm tội có thể thực hiện các hành vi sau - Lấn chiếm đất. Lấn chiếm là từ ghép chỉ hành động “lấn” và “chiếm”. Lấn là lấy thêm đất liền kề với đất của mình nhằm mở rộng diện tích, còn chiếm là dùng thủ đoạn chiếm lấy đất của người khác làm đất của mình mà trước đó mình không hề có. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định thì lấn chiếm cũng có nghĩa gồm cả lấn và chiếm. - Chuyển quyền sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước. Chuyển quyền sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước là bán đất cho người khác không đúng với quy định của Nhà nước như bá đất nông nghiệp cho người khác để là nhà, bán đất do Hợp tác xã giao cho sản xuất cho người khác để lấy tiền tiêu xài... - Sử dụng đất trái với quy định của Nhà nước. Sử dụng đất trái với quy định của Nhà nước là trường hợp người được giao đất đã sử dụng đất không đúng với mục đích được giao như để đất hoang; đất giao để trồng rừng nhưng lại dùng đất đó làm nhà hàng kinh doanh; đất giao để sản xuất nông nghiệp lại dùng đất đó nuôi b. Hậu quả Đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng, thì người có hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa xoá án tích mà còn vi phạm thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng cho tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản cho con người, cho cơ quan, tổ chức và những thiệt hại nghiêm trọng khác cho xã hội. Hiện nay do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội vi phạm các quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai, nhà làm luật còn quy định các dấu hiệu khách quan khác như các quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai, các quy định này thường là của chính phủ hoặc của Uỷ ban nhân nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Vì vậy, khi xác định hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu kỹ các văn bản của Nhà nước quy định về sử dụng đất đai. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội vi phạm quy định về sử dụng đất đai thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai gây ra hậu quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng chủ yếu vì động cơ vụ lợi. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội vi phạm quy định về sử dụng đất đai không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 1 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào mức cao nhất trong khung hình phạt thì khoản 1 Điều 173 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn, nhưng căn cứ vào mức thấp nhất của khung hình phạt thì Điều 173 có quy định hình phạt tiền là hình phạt nhẹ hơn hình phạt cải tạo không giam giữ, nên phải coi khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, hành vi vi phạm quy định về sử dụng đất đai thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 173 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ. Chỉ áp dụng hình phạt tù nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật a. Có tổ chức Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, vi phạm các quy định về sử dụng đất đai có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. b. Phạm tội nhiều lần Cũng như các trường hợp phạm tội nhiều lần khác, vi phạm các quy định về sử dụng đất đai nhiều lần là có từ hai lần vi phạm các quy định về sử dụng đất đai và mỗi lần đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng Cũng tương tự như một số trường hợp trong tội phạm khác, nhà làm luật quy định hai trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng trong cùng một khung hình phạt. Đến nay, chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai gây ra. Vì vậy, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai gây ra. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới hai năm tù hoặc chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, nếu chỉ căn cứ vào mức phạt tiền thì khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, nên không áp dụng đối với người phạm tội thực hiện hành vi trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định hình phạt cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc những công việc nhất định, nên đối với người phạm tội thực hiện hành vi trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng hình phạt này. 22. TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Điều 174. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai 1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm a Đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn; b Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa Vi phạm các quy định về quản lý đất đai là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật. Tội phạm này cũng được tách từ tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai tại Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1985 là do yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong thực tiễn xét xử. So với Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung nhiều theo hướng có lợi cho người phạm tội như Quy định cụ thể hành vi khách quan của người phạm tội; chỉ bị coi là tội phạm khi hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm; bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt ở khoản 2 của điều luật; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, đối với người khác cũng có thể là chủ thể nhưng họ chỉ là đồng phạm trong vụ án có đồng phạm. Nếu hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì chưa phải chịu trách nhiệm hình sự. Đây là quy định mới có lợi cho người phạm tội so với Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1985 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai về việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Đối tượng tác động của tội phạm này cũng là đất đai. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Do đặc điểm về chủ thể của tội phạm này, nên người phạm tội này là người lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đai trái pháp luật. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đai trái pháp luật. xem lợi dụng chức vụ, quyền hạn ở các tội phạm khác đã phân tích ở trên. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn là người có chức vụ, quyền hạn nhưng đã vượt quá quyền hạn được giao để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đai trái pháp dụ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh có quyền giao 1 ha đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích không phải là sản xuất nông nghiệp, nhưng đã giao quá 1 ha đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích không phải là sản xuất nông nghiệp. Người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn có thể thực hiện một trong các hành vi như giao đất trái pháp luật; thu hồi đất trái pháp luật; cho thuê đất trái pháp luật; cho phép chuyển quyền sử dụng đất trái pháp luật; cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật. b. Hậu quả Khác với tội Đối với tội vi phạm các quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai, tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai mà gây hậu quả nghiêm trọng, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 của điều luật. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội vi phạm các quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai, nhà làm luật còn quy định các dấu hiệu khách quan khác như các quy định của Nhà nước về quản lý đất đai như Luật đất đai, các Nghị định của chính phủ hoặc các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân hoặc của Uỷ ban nhân nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Vì vậy, khi xác định hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý đất đai, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu kỹ các văn bản của Nhà nước quy định về quản lý đất đai. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội vi phạm quy định về quản lý đất đai thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý đất đai, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng chủ yếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội vi phạm quy định về quản lý đất đai không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 1 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 174 nặng hơn và nếu so sánh giữa Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nặng hơn, nên hành vi phạm tội vi phạm quy định về quản lý đất đai thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội. Tuy nhiên, khi xác định dấu hiệu cấu thành tội phạm thì lại phải căn cứ vào khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1999 vì có tình tiết làm ranh giới phân biệt giữa hành vi vvi phạm với hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến ba năm tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật a. Đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn Trường hợp phạm tội này nhà làm luật quy định hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt và cả hai tình tiết này cũng có đặc điểm riêng mà các tội phạm khác không có. Đất có diện tích lớn và đất có giá trị lớn là hai vấn đề khác nhau. Cho đến nay, chưa có giải thích hoặc hướng dẫn như thế nào là đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn và cũng không thể vận dụng những hướng dẫn đối với với các tội phạm khác để xác định đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn. Đây cũng là tình tiết mới được nhà làm luật quy định trong cấu thành tội phạm. Trong khi chưa có hướng dẫn chính thức, theo chúng tôi được coi là đất có diện tích lớn nếu từ 10 ha trở lên và nếu giá trị của đất từ 200 triệu trở lên được coi là đất có giá trị lớn. b. Gây hậu quả nghiêm trọng Vi phạm các quy định về quản lý đất đai gây hậu quả nghiêm trọng là do hành vi giao đất trái pháp luật; thu hồi đất trái pháp luật; cho thuê đất trái pháp luật; cho phép chuyển quyền sử dụng đất trái pháp luật; cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản cho con người và những thiệt hại khác cho xã hội. Đến nay, chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai gây ra. Vì vậy, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai gây ra. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới hai năm tù hoặc chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, nếu chỉ căn cứ vào mức phạt tiền thì khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, nên không áp dụng đối với người phạm tội thực hiện hành vi trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định nhẹ hơn Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985, nên đối với người phạm tội thực hiện hành vi trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1999. 23. TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG Điều 175. Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng 1. Người nào có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm a Khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 189 của Bộ luật này; b Vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 153 và Điều 154 của Bộ luật này. 2. Phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng. Định Nghĩa Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là hành vi khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng hoặc vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép. Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là tội phạm được tách từ tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng tại Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985, nay do nhu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm nên nhà làm luật cấu tạo lại thành hai tội danh khác nhau. So với Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1999 tuy vẫn cấu tạo thành hai khung hình phạt nhưng các tình tiết là yếu tố định tội và yếu tố định khung hình phạt có nhiều thay đổi như quy định tình tiết làm ranh giới phân biệt giữa hành vi vi phạm với hành vi phạm tội; quy định cụ thể các hành vi vi phạm cụ thể về khai thác và bảo vệ rừng; hình phạt bổ sung được quy định ngay cùng một điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, bất cứ ai có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và ở một độ tuổi nhất định đều có thể là chủ thể của tội phạm này. Nếu hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng hoặc đã bị kết án về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ rừng. Đối tượng tác động của tội phạm này là rừng và các sản phẩm của rừng như gỗ và các lâm thổ sản khác. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội có thể thực hiện một trong các hành vi sau - Khai thác trái phép cây rừng; - Vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép; - Vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng. Các hành vi trên nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 189 về tội huỷ hoại rừng, Điều 153 về tội buôn lậu và Điều 154 về tội vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng quy định ở các điều luật đó mà không thuộc trường hợp phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. b. Hậu quả Đối với tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng, thì người có hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa xoá án tích mà còn vi phạm thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng cho tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản cho con người, cho cơ quan, tổ chức và những thiệt hại nghiêm trọng khác cho xã hội. Hiện nay do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, nhà làm luật còn quy định các dấu hiệu khách quan khác như Các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng, về vận chuyển buôn bán gỗ. Các quy định này thường là của chính phủ hoặc của Uỷ ban nhân nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Vì vậy, khi xác định hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu kỹ các văn bản của Nhà nước quy định về khai thác và bảo vệ rừng. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng gây hậu quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng chủ yếu vì động cơ vụ lợi. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 1 Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 175 quy định thêm hình phạt tiền là hình phạt chính mặc dù mức cao nhất của khung hình phạt vẫn là ba năm tù, nên phải coi khoản 1 Điều 175 là điều luật nhẹ hơn khoản 1 Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985, nên hành vi phạm tội vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Tuy nhiên, nếu áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì không được quá một năm, vì khoản 1 Điều 181 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ cao nhất là một năm. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến ba năm tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật Cũng tương tự như một số trường hợp trong tội phạm khác, nhà làm luật quy định hai trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng trong cùng một khung hình phạt. Đến nay, chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng gây ra. Vì vậy, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng gây ra. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ hai năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ gây hậu quả rất nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới hai năm tù hoặc chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền. Nếu người phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, nếu chỉ căn cứ vào mức phạt tiền thì khoản 3 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, nên không áp dụng đối với người phạm tội thực hiện hành vi trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định hình phạt cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc những công việc nhất định, nên đối với người phạm tội thực hiện hành vi trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng hình phạt này. 24. TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ RỪNG Điều 176. Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng 1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm a Giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng trái pháp luật; b Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng trái pháp luật; c Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm a Có tổ chức; b Phạm tội nhiều lần; c Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa Vi phạm các quy định về quản lý rừng là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng trái pháp luật; cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng trái pháp luật; cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật. Tội phạm này cũng là tội phạm được tách từ tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng tại Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 176 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung nhiều như Quy định cụ thể hành vi khách quan của người phạm tội; bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt ở khoản 2 của điều luật; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến việc giao rừng, đất trồng rừng; thu hồi rừng, đất trồng rừng; cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng; cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, đối với người khác cũng có thể là chủ thể nhưng họ chỉ là đồng phạm trong vụ án có đồng phạm. Nếu hành vi vi phạm các quy định về quản lý rừng chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội phải là người đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm thì mới chịu trách nhiệm hình sự. Nhà làm luật chỉ quy định đã bị xử lý kỷ luật mà không quy định đã bị kết án về tội này mà còn vi phạm, nên đối với người đã bị kết án về tội vi phạm các quy định về quản lý rừng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì phải gây hậu quả nghiêm trọng mới chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, thực tế rất ít trường hợp người đã bị kết án về tội phạm này lại còn được giao chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý rừng, nhưng như vậy không có nghĩa là không có, vì trên thực tế cũng có trường hợp cán bộ phạm tội vi phạm các quy định về quản lý rừng bị kết án nhưng Toà án chỉ phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ hoặc được hưởng án treo vẫn được giao những chức vụ trong lĩnh vực quản lý rừng. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực giao rừng, đất trồng rừng; thu hồi rừng, đất trồng rừng; cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng; cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản Đối tượng tác động của tội phạm này là rừng và các lâm sản từ rừng. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội này là người lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao rừng, đất trồng rừng; thu hồi rừng, đất trồng rừng; cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng; cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lạm dụng chức vụ, quyền hạn cũng tương tự như trường hợp phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai xem hành vi khách quan của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai Người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn có thể thực hiện một trong các hành vi như Giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng trái pháp luật; cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng trái pháp luật; cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật. b. Hậu quả Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý rừng, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng, thì người có hành vi vi phạm các quy định về quản lý rừng phải là người đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Hiện nay do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về quản lý rừng gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về quản lý rừng. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội vi phạm các quy định về quản lý rừng, nhà làm luật còn quy định các dấu hiệu khách quan khác như các quy định của Nhà nước về quản lý rừng như Luật bảo vệ và phát triển rừng, các Nghị định của chính phủ hoặc các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân hoặc của Uỷ ban nhân nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Vì vậy, khi xác định hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về quản rừng, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu kỹ các văn bản của Nhà nước quy định về quản lý rừng. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội vi phạm quy định về quản lý rừng thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý rừng gây hậu quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng chủ yếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội vi phạm quy định về quản lý rừng không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 176 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội vi phạm các quy định về quản lý rừng, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 1 Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 176 nặng hơn vì hình phạt cải tạo không giam giữ tới ba năm, và nếu so sánh giữa Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 176 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 176 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nặng hơn, nên hành vi phạm tội vi phạm quy định về quản lý rừng thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 176 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến ba năm tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật a. Có tổ chức Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, vi phạm các quy định về quản lý rừng có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. b. Phạm tội nhiều lần Cũng như các trường hợp phạm tội nhiều lần khác, vi phạm các quy định về quản lý rừng nhiều lần là có từ hai lần vi phạm các quy định về quản lý rừng và mỗi lần đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần. c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng Đến nay, chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về quản lý rừng gây ra. Vì vậy, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về quản lý rừng gây ra. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 176 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới hai năm tù hoặc chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 3. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật Khoản 3 của điều luật chỉ quy định một trường hợp, đó là phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Đến nay, cũng chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về quản lý rừng gây ra. Vì vậy, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về quản lý rừng gây ra. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có thể bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 176 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới năm năm tù, nhưng không được dưới hai năm tù vì theo Điều 47 Bộ luật hình sự thì, khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 3 là khoản 2 của điều luật. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười hai năm tù. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, nếu căn cứ vào hình phạt tiền thì khoản 4 Điều 176 nhẹ hơn, nhưng căn cứ vào hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ thì khoản 4 Điều 176 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị xử lý, nếu áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung thì không được quá một triệu, nếu áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ thì áp dụng khoản 4 Điều 176 Bộ luật hình sự năm 1999. 25. TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ CUNG ỨNG ĐIỆN Điều 177. Tội vi phạm các quy định về cung ứng điện 1. Người nào có trách nhiệm mà thực hiện một trong các hành vi sau đây, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm a Cắt điện không có căn cứ hoặc không thông báo theo quy định; b Từ chối cung cấp điện không có căn cứ; c Trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng. 2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa Vi phạm các quy định về cung ứng điện là hành vi của người có trách nhiệm trong việc cung ứng điện mà cắt điện không có căn cứ hoặc không thông báo theo quy định; từ chối cung cấp điện không có căn cứ; trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng. Tội vi phạm các quy định về cung ứng điện là tội phạm đã được quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự năm 1985 với tội danh “sử dụng và phân phối điện trái phép”, nay Điều 177 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định hành vi sử dụng điện trái phép là tội phạm nữa mà chỉ quy định hành vi phân phối điện trái phép là hành vi phạm tội, nhưng cũng được sửa thành vi phạm các quy định về cung ứng điện. Cấu tạo của Điều 177 cũng có nhiều thay đổi so với Điều 182 Bộ luật hình sự năm 1985 như Quy định thêm tình tiết là yếu tố định tội; quy định cụ thể hành vi khách quan của người phạm tội; bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt ở khoản 2 của điều luật; bỏ tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 182 Bộ luật hình sự năm 1985; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng điều luật. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có trách nhiệm liên quan đến việc cung ứng điện mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, những người có trách nhiệm cung ứng điện không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn, mà họ còn có thể là những người khác được phân công làm nhiệm vụ cung ứng điện. Đối với người khác cũng có thể là chủ thể nhưng họ chỉ là đồng phạm trong vụ án có đồng phạm. Nếu hành vi vi phạm các quy định về cung ứng điện chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội phải là người đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới chịu trách nhiệm hình sự. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực cung ứng điện. Đối tượng tác động của tội phạm này là nguồn điện điện dùng cho sản xuất, sinh hoạt, trang trí, thắp sáng nơi công cộng... 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội này là người có trách nhiệm trong việc cung ứng điện để thực hiện một trong các hành vi sau Cắt điện không có căn cứ hoặc không thông báo theo quy định; từ chối cung cấp điện không có căn cứ; trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng. Cắt điện không có căn cứ là cắt điện không có lý do chính đáng. Ví dụ Vũ Văn K là nhân viên chi nhánh điện quận Đ, vì quen biết với gia đình Phạm Quốc B, nên đã cắt điện sinh hoạt của cả tổ dân phố để gia đình B xây nhà vi phạm an toàn lưới điện. Cắt điện không thông báo theo quy định là trường hợp theo quy định phải thông báo về việc cắt điện trước khi cắt điện, nhưng chưa có thông báo hoặc không thông báo mà vẫn cắt điện. Việc thông báo cắt điện phải được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông báo đến tận người sử dụng điện. Từ chối cung cấp điện không có căn cứ là trường hợp người sử dụng điện đã làm đầy đủ các thủ tục cần thiết theo quy định nhưng không được cung cấp điện, lý do mà bên cung cấp đưa ra để từ chối việc cung cấp điện là không có căn cứ. Trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng là trường hợp điện bị sự cố mất điện, đã nhận được thông báo bị mất điện, có điều kiện để khắc phục sự cố nhưng không xử lý sự cố mà trì hoãn gây khó khăn cho người sử dụng điện. b. Hậu quả Đối với tội vi phạm các quy định về cung ứng điện, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng, thì người có hành vi vi phạm các quy định về cung ứng điện phải là người đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này mà còn vi phạm thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Hiện nay do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định cung ứng điện gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về cung ứng điện. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội vi phạm các quy định về cung ứng điện, nhà làm luật còn quy định các dấu hiệu khách quan khác như các quy định của Nhà nước về cung ứng điện như Các quy định về cắt điện, về cung cấp điện, về xử lý sự cố khi mất điện... Vì vậy, khi xác định hành vi vi phạm các quy định về cung ứng điện, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu kỹ các văn bản của Nhà nước quy định về cung ứng điện. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội vi phạm quy định về cung ứng điện thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định của Nhà nước về cung ứng điện gây hậu quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng chủ yếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội vi phạm quy định về cung ứng điện không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 177 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội vi phạm các quy định về cung ứng điện, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 1 Điều 182 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 177 nhẹ, và nếu so sánh giữa Điều 182 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 177 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 177 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều luật nhẹ hơn, nên hành vi phạm tội vi phạm quy định về cung ứng điện thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 177 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 177 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến hai năm tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật Cũng tương tự như đối với một số tội phạm khác, khoản 2 Điều 177 quy định hai trường hợp pham tội có có tính chất, mức độ nghiêm trọng khác nhau. Đây là vấn đề chúng tôi đã nêu và phân tích ở một số tội phạm, hy vọng rằng khi có điều kiện sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, nhà làm luật sẽ quan tâm đến sự bất hợp lý này. Đến nay, cũng chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về cũng ứng điện gây ra. Vì vậy, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về cung ứng điện gây ra. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 177 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới hai năm tù hoặc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền t tiền từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. So với Điều 185 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, nếu căn cứ vào hình phạt tiền thì khoản 3 Điều 177 nhẹ hơn, nhưng căn cứ vào hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định thì khoản 3 Điều 177 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị xử lý, nếu áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung thì không được quá một triệu, nếu áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ thì áp dụng khoản 3 Điều 177 Bộ luật hình sự năm 1999. 26. TỘI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP QUỸ DỰ TRỮ BỔ SUNG VỐN ĐIỀU LỆ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG Điều 178. Tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng 1. Người nào có trách nhiệm mà dùng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ chia lợi tức cổ phần gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa Sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng là hành vi của người có trách nhiệm mà dùng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ chia lợi tức cổ phần. Đây là tội phạm mới, do tình hình kinh tế-xã hội phát triển. Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định tội phạm này. Vì vậy, hành vi Sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì không bị coi là tội phạm. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có trách nhiệm liên quan đến việc quản lý quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Đối với người khác cũng có thể là chủ thể nhưng họ chỉ là đồng phạm trong vụ án có đồng phạm. Người có trách nhiệm trong việc quản lý quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng là các thành viên trong Hội đồng quản trị, các cổ đông, những người mà quyền lợi của họ có liên quan đến lợi tức được chia từ vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. Nếu hành vi sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội phải là người đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới chịu trách nhiệm hình sự. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. Đối tượng tác động của tội phạm này là quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Hành vi khách quan của người phạm tội này là hành vi dùng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng để chia lợi tức cổ phần. Theo quy định của Nhà nước thì quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng không được đem chia lợi tức cổ phần, nhưng người có trách nhiệm trong việc quản lý quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng vẫn dùng quỹ này để chia lợi tức cho các cổ đông. Sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, có thể bao gồm nhiều hành vi khác nhau, nhưng chỉ có hành vi dùng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng để chia lợi tức cổ phần mới là hành vi phạm tội. Vì vậy, có ý kiến cho rằng tội phạm này nhà làm luật nên quy định tội danh là “Dùng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng để chia lợi tức cổ phần” để khỏi nhầm lẫn với những hành vi khác sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng như hành vi sử dụng trái phép tài sản mà tài sản là quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. b. Hậu quả Đối với tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng, thì người có hành vi sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng phải là người đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này mà còn vi phạm thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Hiện nay do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, nhà làm luật còn quy định các dấu hiệu khách quan khác như Quy định của Nhà nước về sử dụng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, quy định này chủ yếu là của Nhân hàng Nhà nước về tổ chức tín dụng. Vì vậy, khi xác định hành vi vi phạm các quy định về sử dụng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu kỹ các văn bản của Nhà nước quy định về sử dụng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định của Nhà nước về sử dụng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng chủ yếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến hai năm tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội hưởng án treo. 2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật Khoản 2 Điều 178 cũng quy định hai trường hợp pham tội có có tính chất, mức độ nghiêm trọng khác nhau trong cùng một khung hình phạt, đó là sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Đến nay, cũng chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng gây ra. Vì vậy, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng gây ra. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 178 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới hai năm tù hoặc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. 27. TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ CHO VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Điều 179. Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng 1. Người nào trong hoạt động tín dụng mà có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến bảy năm a Cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật; b Cho vay quá giới hạn quy định; c Hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt động tín dụng. 2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm. 3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc liên quan đến hoạt động tín dụng từ một năm đến năm năm. Định nghĩa Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng là hành vi cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật; cho vay quá giới hạn quy định hoặc hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt động tín dụng. Đây là tội phạm mới, do tình hình kinh tế-xã hội phát triển. Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định tội phạm này. Vì vậy, hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì không bị coi là tội phạm. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, tội phạm này không phải là tội phạm mới là mà là tội phạm được tách ra từ tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, vì hành vi cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật; cho vay quá giới hạn quy định hoặc hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt động tín dụng trước đây đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý làm trái... Dù có thể có ý kiến khác nhau nhưng theo chúng tôi, nếu hành vi cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật; cho vay quá giới hạn quy định hoặc hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt động tín dụng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện mà cần truy cứu trách nhiệm hình sự thì cũng chỉ có thể truy cứu theo tội cố ý làm trái chứ không thể truy cứu về tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng được. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có trách nhiệm trong hoạt động tín dụng mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Đối với người khác cũng có thể là chủ thể nhưng họ chỉ là đồng phạm trong vụ án có đồng phạm. Người có trách nhiệm trong hoạt động tín dụng là những người chịu trách nhiệm trong việc cho vay tín dụng như Giám đốc, Phó giám đốc các ngân hàng chuyên doanh của Nhà nước, ngân hàng cổ phần, các cán bộ tín dụng... 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực cho vay trong hoạt động tín dụng. Đối tượng tác động của tội phạm này là các khoản tiền, vàng, ngoại tệ...cho vay trong hoạt động tín dụng. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng có thể thực hiện một trong các hành vi sau Cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật; Cho vay quá giới hạn quy định; Hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt động tín dụng. Cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật là trường hợp cho vay không có thế chấp, không có cầm cố, không có bảo lãnh theo quy định của pháp luật. Cho vay quá giới hạn quy định là trường hợp cho vay tuy có bảo đảm nhưng số tiền, vàng, ngoại tệ cho vay quá mức quy định. Ví dụ Tài sản thế chấp trị giá đồng, theo quy định của ngân hàng thì số tiền cho vay không được quá 80% giá trị tài sản thế chấp không quá đồng, nhưng ngân hàng đã cho khách hàng vay quá đồng. Hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt động tín dụng là trường hợp cho vay trái với quy định của pháp luật ngoài trường hợp cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật và cho vay quá giới hạn quy định như Cho vay với lãi suất thấp hơn hoặc cao hơn lai suất quy định; cho vay không đúng đối tượng được vay... b. Hậu quả Đối với tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng, thì người có hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, thì người phạm tội chưa phải chịu trách nhiệm hình sự. Hiện nay do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, nhà làm luật còn quy định các dấu hiệu khách quan khác như Quy định của Nhà nước về cho vay trong hoạt động tín dụng. Các quy định này chủ yếu là của Nhân hàng Nhà nước về hoạt động tín dụng. Vì vậy, khi xác định hành vi vi phạm các quy định về cho vay trong hoạt động tín dụng, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu kỹ các văn bản của Nhà nước quy định về cho vay trong hoạt động tín dụng. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định của Nhà nước về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng chủ yếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 179 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc bị phạt tù từ một đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 179 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc phạt dưới một năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật Khoản 2 Điều 179 chỉ quy định một trường hợp pham tội, đó là vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng gây hậu quả rất nghiêm trọng. Đây lại là một đặc điểm khác với một số tội phạm khác nhà làm luật quy định gây hậu quả rất nghiêm trọng và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng trong cùng một khung hình phạt. Đến nay, cũng chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng gây ra. Vì vậy, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng gây ra. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có thể bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 179 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới năm năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười hai năm tù. 3. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật Cũng tương tự như khoản 2 của điều luật, khoản 3 của điều luật chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Việc xác định hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng cũng tương tự với các trường hợp khác, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng gây ra. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, có thể bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 179 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới mười năm tù, nhưng không được dưới năm năm. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến hai mươi năm tù. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc liên quan đến hoạt động tín dụng từ một năm đến năm năm. 28. TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ, NGÂN PHIỀU GIẢ, CÔNG TRÁI GIẢ Điều 180. Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả 1. Người nào làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm. 2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm. 3. Phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Định nghĩa Làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả là hành vi làm ra, cất giữ, vận chuyển, sử dụng, trao đổi, mua bán các loại tiền giả, ngân phiếu giả và công trái giả. Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả là tội phạm được tách từ tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lưu hành tiền giả, tội phá huỷ tiền tệ quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1985. Trước đây tội phạm này được coi là tội xâm phạm an ninh quốc gia. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội phạm này tại chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, nhưng vì thế mà cho rằng tính chất nguy hiểm của tội phạm giảm đi. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thanh hai tội khác nhau cho phù hợp với hành vi phạm tội và tính chất nguy hiểm của từng hành vi. Đối với hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả nuy hiểm hơn hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác nên nhà làm luật quy định hai hành vi nay thành hai tội khác nhau có khung hình phạt khác nhau. So với Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999 có một số sửa đổi, bổ sung như - Hành vi phá huỷ tiền tệ của mình thì không bị coi là hành vi phạm tội, nếu phá huỷ tiền tệ của người khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hỏng tài sản quy định tại Điều 143 Bộ luật hình sự. - Quy định thêm hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành ngân phiếu giả mà Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. - Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999 được cấu tạo thanh 3 khung hình phạt và hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng một điều luật. So với Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 180 là điều luật năng hơn. Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả là tội gép gồm 4 hành vi khác nhau, nên khi định tội cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà định tội cho chính xác. Ví dụ Nếu người phạm tội chỉ thực hiện hành vi làm tiền giả thì định tội là “làm tiền giả”; nếu người phạm tội vừa có hành vi tàng trữ tiền giả, vừa có hành vi lưu hành tiền giả thì định tội là “ làm và lưu hành tiền giả”; nếu người phạm tội vừa có hành vi làm tiền giả vừa có hành vi lưu hành công trái giả thì phải định tôi là “ làm tiền giả” và tội “lưu hành ngân phiếu giả” rồi tổng hợp hình phạt theo Điều 50 Bộ luật hình sự. A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, bất cứ ai có năng lực hành vi và đến một độ tuổi nhất định đều có thể là chủ thể của tội phạm này. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý tiền tệ và các loại giấy tờ có giá trị như tiền. Đối tượng tác động của tội phạm này là tiền, ngân phiếu, công trái 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả có thể thực hiện một trong các hành vi sau Làm tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả; Tàng trữ tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả; Vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả; Lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Mỗi hành vi trên lại gồm 3 hành vi khác nhau tuỳ thuộc vào đối tượng như Làm tiền giả; làm ngân phiếu giả; làm công trái giả. Nếu xác định một cách đầy đủ thì người phạm tội có thể thực hiện đến 12 hành vi phạm tội khác nhau. b. Hậu quả Đối với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, hậu quả do hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả gây ra là rất nghiêm trọng vì nó xâm phạm đến việc phát hành, lưu hành, quản lý tiền tệ của Nhà nước. Cũng chính vì tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội này nên nhà làm luật không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, tức là chưa cần gây ra hậu quả tội phạm đã hoàn thành. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, đối với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả, nhà làm luật không quy định các dấu hiệu khách quan khác như đối với một số tội phạm khác. Tuy nhiên, khi xác định thê nào là tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả, các cơ quan tiến hành tố tụng cần trưng cầu giám định của cơ quan chuyên môn về để biết được tiền, ngân phiếu, công trái có phải là giải hay không. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả, thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng chủ yếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nhưng viẹc xác định động cơ phạm tội có ý nghĩa rất lớn đối với việc quyết định hình phạt. Người phạm tội vì trục lợi mà làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả nguy hiểm hơn nhièu so với người phạm tội biết là tiền giả nhưng vì tiếc của mà đem lưu hành thường là bị trả nhầm tiền giả sau đó mới biết nhưng vì tiếc của nên đem tiêu. B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ 1. Phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 180 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả, người phạm tội có thể bị phạt từ ba năm đến bảy năm tù, là tội phạm nghiêm trọng. So với khoản 1 Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn và nếu so sánh giữa Điều 180 với Điều 98 thì Điều 180 là điều luật nhẹ hơn, nên người phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, công trái giả xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, nếu là hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành ngân phiếu giả xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì không coi là hành vi phạm tội vì hành vi này mới được quy định tại Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 180 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới ba năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật Khoản 2 của điều luật chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Khác với với một số tội phạm nhà làm luật quy định tình tiết là yếu tố định khung hình phạt thường là gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, còn đối với tội phạm này nhà làm luật quy định phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng khác với phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng cũng tương tự như phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng. Trước đây Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã hướng dẫn tạm thời áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1985 về trường hợp phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là hướng dẫn tạm thời và chủ yếu đáp ứng tình hình đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, nay Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999 bổ sung thêm trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng nên hướng dẫn tạm thời không còn phù hợp nữa. Hiện nay chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả thuộc trường hợp nghiêm trọng, nhưng qua thực tiễn xét xử chúng tôi thấy có thể coi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả thuộc trường hợp nghiêm trọng nếu - Làm hoặc lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả từ 10 triệu đồng đến dưới 30 triệu đồng; - Tàng trữ, vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. Ngoài ra, nếu làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả dưới mức trên, nhưng gây ra hậu quả nghiêm trọng khác thì cũng coi là thuộc trường hợp nghiêm trọng và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật. Phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng thì người phạm tội có bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 180 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới năm năm tù, nhưng không được dưới ba năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười hai năm tù. 3. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật Khoản 3 của điều luật quy định hai trường hợp phạm tội, đó là phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Mặc dù hai trường hợp phạm tội có tính chất, mức độ nghiêm trọng khác nhau được quy định trong cung một khung hình phạt, nhưng chúng ta vẫn phải phân biệt hai trường hợp phạm tội để làm căn cứ khi quyết định hình phạt cho chính xác. Trong khi chưa có hướng dẫn chính thức, có thể coi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả thuộc trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nếu - Làm hoặc lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. Trên 50 triệu đồng là thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; - Tàng trữ, vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả từ 50 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng. Trên 100 triệu đồng là thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra, nếu làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả dưới mức trên, nhưng gây ra hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác thì cũng coi là thuộc trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 của điều luật. Phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội có bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 180 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới mười năm tù, nhưng không được dưới năm năm tù. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp đặt biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tù chung thân hoặc tử hình. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. So với Điều 100 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 4 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung như Bỏ hình phạt quản chế hoặc cấm cứ trú; mức tiền phạt cao hơn. 29. TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH SÉC GIẢ, CÁC GIẤY TỜ CÓ GIÁ GIẢ KHÁC Điều 181. Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác 1. Người nào làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm. 3. Phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Định nghĩa Làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác là hành vi làm ra, cất giữ, vận chuyển, sử dụng, trao đổi, mua bán các loại séc giả, các giấy tờ có giá giả khác. Tội phạm này cũng được tách từ tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lưu hành tiền giả, tội phá huỷ tiền tệ quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1985. Nên các dấu hiệu của tội phạm và cơ cấu cũng tương tự như tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Đặc điểm để phân biệt giữa hai tội phạm này là đối tượng phạm tội. Nếu là séc giả, các giấy tờ có giá giả khác thì thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Điều 181, nếu là tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả thì thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Điều 180 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, để tiện việc theo dõi, chúng tôi vẫn giới thiệu các dấu hiệu cấu thành tội phạm này, những dấu hiệu tương tự với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả sẽ không nhắc lại nữa. a. các dấu hiệu cơ bản của tội phạm 1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, bất cứ ai có năng lực hành vi và đến một độ tuổi nhất định đều có thể là chủ thể của tội phạm này. 2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý séc giả, các giấy tờ có giá giả khác. Đối tượng tác động của tội phạm này là séc giả, các giấy tờ có giá giả khác. 3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan Người phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác có thể thực hiện một trong các hành vi sau Làm séc giả, các giấy tờ có giá giả khác; Tàng trữ séc giả, các giấy tờ có giá giả khác; Vận chuyển séc giả, các giấy tờ có giá giả khác; Lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác. Mỗi hành vi trên lại gồm 2 hành vi khác nhau tuỳ thuộc vào đối tượng như Làm séc giả, làm các giấy tờ có giá giả khác. Nếu xác định một cách đầy đủ thì người phạm tội có thể thực hiện đến 8 hành vi phạm tội khác nhau. Vì vậy, tuỳ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể mà định tội cho phù hợp với hành vi mà người phạm tội thực hiện. b. Hậu quả Đối với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. c. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm Ngoài hành vi khách quan, đối với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác, nhà làm luật không quy định các dấu hiệu khách quan khác như đối với một số tội phạm khác. Tuy nhiên, khi xác định thế nào là séc giả, các giấy tờ có giá giả khác, các cơ quan tiến hành tố tụng cần trưng cầu giám định của cơ quan chuyên môn về để biết được séc giả, các giấy tờ có giá giả khác hay không. 4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác, thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng chủ yếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. b. các trường hợp phạm tội cụ thể 1. Phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác, không có các tình tiết định khung hình phạt Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 181 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác, người phạm tội có thể bị phạt từ hai năm đến bảy năm tù, là tội phạm nghiêm trọng. So với khoản 1 Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn và nếu so sánh giữa Điều 181 với Điều 98 thì Điều 181 là điều luật nhẹ hơn, nên người phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, nếu là hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành các giấy tờ có giá giả khác, xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì không coi là hành vi phạm tội vì hành vi này mới được quy định tại Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm theo khoản 1 Điều 181 Bộ luật hình sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự từ Điều 45 đến Điều 54. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới hai năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến bảy năm tù. 2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật Khoản 2 của điều luật chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hiện nay chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác thuộc trường hợp nghiêm trọng, nhưng qua thực tiễn xét xử chúng tôi thấy có thể coi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác thuộc trường hợp nghiêm trọng nếu - Làm hoặc lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác có giá trị từ 10 triệu đồng đến dưới 30 triệu đồng; - Tàng trữ, vận chuyển séc giả, các giấy tờ có giá giả khác, có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. Ngoài ra, nếu làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác giả dưới mức trên, nhưng gây ra hậu quả nghiêm trọng khác thì cũng coi là thuộc trường hợp nghiêm trọng và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật. Phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng thì người phạm tội có bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 181 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới năm năm tù, nhưng không được dưới hai năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười hai năm tù. 3. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật Khoản 3 của điều luật quy định hai trường hợp phạm tội, đó là phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trong khi chưa có hướng dẫn chính thức, có thể coi hành vi làm séc giả, các giấy tờ có giá giả khác thuộc trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nếu - Làm hoặc lưu hành tiền séc giả, các giấy tờ có giá giả khác từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. Trên 50 triệu đồng là thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; - Tàng trữ, vận chuyển séc giả, các giấy tờ có giá giả khác từ 50 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng. Trên 100 triệu đồng là thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra, nếu làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác dưới mức trên, nhưng gây ra hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác thì cũng coi là thuộc trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 của điều luật. Phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội có bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 181 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới mười năm tù, nhưng không được dưới năm năm tù. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp đặt biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt hai mươi năm tù. 4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. So với Điều 100 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 4 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung như Bỏ hình phạt quản chế hoặc cấm cứ trú; mức tiền phạt cao hơn. _______________________ 1 Khi phân tích từng tội, chúng tôi sẽ nêu cụ thể những sửa đổi, bổ sung so với tội danh đó quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985. 2 Xem Nghị quyết số 04/ HDTP ngày 29-11-1986 và Nghị quyết Nghị quyết số 01-89/HDTP ngày 19-4-1989 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng. Tr 53, 99. 4 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Căn cứ quyết định hình phạt 5 Nguyên tắc này áp dụng chung cho tất cả các trường hợp phạm tội nên chúng tôi chỉ nêu một lần và không nhắc lại khi phân tích các trường hợp phạm tội khác, mà chỉ nếu những tình tiết khác chỉ riêng trường hợp phạm tội đó có. 6 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Phần phạm tội có tổ chức. 4 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Căn cứ quyết định hình phạt 5 Nguyên tắc này áp dụng chung cho tất cả các trường hợp phạm tội nên chúng tôi chỉ nêu một lần và không nhắc lại khi phân tích các trường hợp phạm tội khác, mà chỉ nếu những tình tiết khác chỉ riêng trường hợp phạm tội đó có. 6 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Phần phạm tội có tổ chức. 8 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 9 Khi tác giả viết bình luận Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, cũng như khi viết các bình luận các chương đã xuất bản từ tập 1 đến tập 5 chưa có hướng dẫn tại các Thông tư liên tịch của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an và Bộ Tư pháp. 10 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 11 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 12 Xem Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15-3-2001 dẫn áp dụng một số quy định của các Điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 Bộ luật hình sự. 10 Xem điểm 1, mục A “các dấu hiệu thuộc về chủ thể”của tội buôn lậu 11 Xem điểm 1, mục A “các dấu hiệu thuộc về chủ thể”của tội buôn lậu 12 Xem điểm 1, mục A “các dấu hiệu thuộc về chủ thể”của tội buôn lậu 13 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 14 Xem Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 15 Xem Đinh văn Quế “Bình luận koa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm tập V- Các tội phạm về chức vụ”
Download ebook bình luận khoa học bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 gồm 2 phần bình luận khoa học bộ luật hình sự năm 1999 phần chung và bình luận khoa học bộ luật hình sự năm 1999 phần các tội phạm Những nội dung liên quan được tìm kiếm Bảng so sánh bộ luật hình sự 1999 và 2015 toàn tập Download bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 kèm chú thích Toàn bộ văn bản pháp luật trong lĩnh vực hình sự mới nhất 2018 1. Khái niệm tội phạm, đồng phạm Bàn về khái niệm tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 Tác giả Ts. Trương Quang Vinh Sửa đổi khái niệm tội phạm trong bộ luật Hình sự hiện hành Tác giả Nguyễn Đức Các khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm trong tội phạm học Tác giả Nguyễn Ngọc Hòa Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức tội phạm, tội phạm có tổ chức và phạm tội có tổ chức Tác giả TS. Trần Quang Tiệp Một số vấn đề về “phạm tội có tổ chức” Tác giả ThS. Đinh Văn Quế Những điểm chung giữa vi phạm hành chính và tội phạm Tác giả Trần Thu Hạnh Vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 Tác giả Hồ Trọng Ngũ Một số vấn đề về đồng phạm quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự Tác giả ThS. Đinh Văn Quế Vấn đề mặt chủ quan của đồng phạm Tác giả Cao Thị Oanh Bàn về khái niệm nạn nhân của tội phạm Tác giả Trần Hữu Tráng 2. Cấu thành tội phạm Các dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm Tác giả Trần Hoài Ân Lý luận cấu thành tội phạm trong khoa học luật hình sự Tác giả TS. Lê Cảm Phân loại cấu thành tội phạm và một số vấn đề về trách nhiệm hình sự Tác giả ThS. Cao Thị Oanh Các dạng cấu thành tội phạm trong bộ luật hình sự Tác giả ThS. Nguyễn Mai Bộ Phạm vi chủ thể của tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999 và một số vấn đề cần chú ý trong công tác điều tra hình sự Tác giả ThS. Bùi Kiên Điện Các trường hợp phạm nhiều luật trong luật hình sự Tác giả Nguyễn Ngọc Hoà Định tội danh trong trường hợp một hành vi thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm Tác giả Phan Anh Tuấn Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không? Tác giả Phạm Hồng Hải Lỗi cố ý gián tiếp và tội có cấu thành hình thức Tác giả ThS. Nguyễn Văn Hương Về loại tội phạm có hai hình thức lỗi Tác giả ThS. Lô Văn Lý 3. Trách nhiệm hình sự Phân hóa trách nhiệm hình sự – Một số vấn đề lý luận cơ bản Tác giả Lê Cảm – ThS. Cao Thị Oanh Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt Tác giả Lê Thị Sơn Một số vấn đề phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng Tác giả ThS. Đinh Văn Quế Luận văn “Tình thế cấp thiết trong Luật hình sự Việt Nam” Luận văn ThS. Luật của Nguyễn Hương Giang, hướng dẫn Đào Trí Úc 4. Thời hiệu truy cứu TNHS, miễn TNHS Về trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự Tác giả Lê Cảm – Trịnh Tiến Việt Một số vấn đề về thời hiệu truy cứu TNHS và cách tính thời hiệu truy cứu TNHS trong một số trường hợp cụ thể Tác giả ThS. Đinh Văn Quế Về chế định miễn trách nhiệm hình sự Tác giả Ths Nguyễn Văn Cừ Hậu quả của việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự Lý luận, thực tiễn và hướng hoàn thiện pháp luật Tác giả TS. Trịnh Tiến Việt Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt Tác giả Lê Cảm – Trịnh Tiến Việt Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến nhân thân người phạm tội Tác giả ThS. Đinh Văn Quế 5. Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự Tuổi chịu trách nhiệm hình sự Quy định còn bất cập! Tác giả Lê Nguyễn Bàn về độ tuổi chịu TNHS của người chưa thành niên Tác giả Hồ Nguyễn Quân Bộ Luật hình sự hiện hành mâu thuẫn trong quy định tuổi chịu TNHS và người đã thành niên Tác giả TS. Trịnh Tiến Việt Thế nào là người già? Tác giả Tiến Hiểu – Hồng Tú Nên thống nhất từ 60 là già Tác giả ThS. Đinh Văn Quế 6. Tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Bàn về mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm và tình tiết tăng nặng TNHS Tác giả Trịnh Tiến Việt – Phan Thị Thủy Các tình tiết tăng nặng TNHS Một số vấn đề lý luận và thực tiễn Tác giả Trịnh Tiến Việt Bàn về tình tiết tăng nặng TNHS “phạm tội nhiều lần” quy định trong Luật hình sự Việt Nam Tác giả ThS. Lê Văn Luật Các tình tiết tăng nặng TNHS phản ánh cách thức thực hiện tội phạm và một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS Tác giả ThS. Đinh Văn Quế Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam Tác giả Bùi Kiến Quốc Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Tác giả TS. Trần Đình Thắng Bàn về tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm g khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự Tác giả ThS. Lê Văn Luật Một số vấn đề về tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” Tác giả ThS. Đinh Văn Quế Về ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ trong việc quyết định hình phạt Tác giả Trịnh Tiến Việt Nguyên đơn dân sự có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS theo Khoản 2 Điều 46 BLHS hay không? Tác giả Hoàng Thị Thu Hằng 7. Các tình tiết phạm tội Một số vấn đề khi áp dụng tình tiết Phạm tội đối với trẻ em Tác giả ThS. Đinh Văn Quế Một số vấn đề khi áp dụng tình tiết “tự thú” và “đầu thú” trong thực tiễn xét xử Tác giả ThS. Đinh Văn Quế Bàn về tình tiết “có tính chất côn đồ” trong Bộ luật hình sự Tác giả Nguyễn Cường Tình tiết định tội “Phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” Tác giả TS. Phạm Văn Beo 8. Định tội danh và hình phạt Chính sách xử lý tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam Tác giả Nguyễn Ngọc Hòa Hai ý kiến về quyết định hình phạt trong Bộ luật hình sự Tác giả TS. Phạm Văn Beo Vấn đề xác định và chuyển hóa tội danh nặng hơn, nhẹ hơn và ngược lại Tác giả ThS. Nguyễn Hữu Hậu Xung đột quan điểm trong việc xác định tội danh Tác giả TS. Phạm Văn Beo Tìm hiểu việc định tội và quyết định hình phạt từ phương diện là những hoạt động áp dụng pháp luật hình sự cơ bản của Tòa án Tác giả ThS. Chu Thị Trang Vân Toà án cấp phúc thẩm áp dụng Điều khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn Tác giả ThS. Đinh Văn Quế Một số vấn đề áp dụng Điều 47 Bộ Luật hình sự khi quyết định hình phạt tù đối với người phạm tội Tác giả ThS. Đinh Văn Quế Hoàn thiện một số biện pháp miễn, giảm hình phạt trong Bộ Luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp Tác giả Trịnh Quốc Toản Chế định miễn hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam Tác giả Phan Thị Lệ Hằng Về khái niệm và đặc điểm của hình phạt bổ sung trong Luật hình sự Tác giả Trịnh Quốc Toản Nhu cầu và những quan điểm cơ bản hoàn thiện chế định hình phạt bổ sung trong Luật hình sự Việt Nam Tác giả Trịnh Quốc Toản Điểm mới trong bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt bổ sung Tác giả Đào Lệ Thu Vấn đề tổng hợp hình phạt tù với hình phạt cải tạo không giam giữ Tác giả ThS. Đinh Văn Quế Chế độ thử thách của án treo trong Luật hình sự Việt Nam Tác giả ThS. Phạm Văn Báu Một số vấn đề về “tổng hợp hình phạt tù với án treo” Tác giả ThS. Đinh Văn Quế Về cách tính thời gian thử thách của án treo Tác giả Ths. Nguyễn Thị Xuân Thực tiễn thi hành Nghị định số 61/2000/NĐ-CP đối với người được hưởng án treo Tác giả Nguyễn Ngọc Kiên Khái niệm và phạm vi áp dụng hình phạt tử hình Tác giả TS. Phạm Văn Beo Nguyên lý của việc bỏ hay giữ hình phạt tử hình Tác giả Ths Bùi Ngọc Sơn Hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự năm 1999 Tác giả TS. Trương Quang Vinh Trong pháp luật bảo lãnh khác bảo lĩnh ra sao? Tác giả ThS. Đinh Văn Quế 9. Quy định đối với người chưa thành niên Khái niệm người chưa thành niên và khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra – cơ sở có tính pháp lí quan trọng để phòng ngừa, điều tra tội phạm và xử lí người chưa thành niên phạm tội Tác giả Bùi Thành Chung Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội Tác giả TS. Cao Thị Oanh Cần sửa đổi, bổ sung quy định về Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội Tác giả Ths. Phạm Văn Thiệu Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội Tác giả ThS. Đinh Văn Quế Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội Tác giả TS. Dương Tuyết Miên 10. Hoàn thiện Bộ Luật hình sự Một số vấn đề về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 1999 Tác giả Thạc sỹ Nguyễn Quang Lộc Những vấn đề cần hướng dẫn thêm khi thực hiện Nghị quyết 33/2009/NQ-QH12 ngày 19/06/2009 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự Tác giả Trần Thị Hồng Việt Những vướng mắc trong thực hiện Nghị quyết số 33/2009/NQ-QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội Tác giả Nguyễn Thùy Dương Đổi mới chính sách hình sự – định hướng cho việc hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 1999 Tác giả Lê Thị Sơn Luật hình sự Việt Nam – Sự phát triển trong 20 năm đổi mới và các định hướng hoàn thiện Tác giả Nguyễn Ngọc Hòa File này chỉ hoạt động khi mở bằng máy tính Tải về máy Bình luận khoa học bộ luật hình sự năm 1999 phần chung Bình luận khoa học bộ luật hình sự năm 1999 phần các tội phạm Binh luan khoa hoc bo luat hinh su – Tap 1 Toi xam pham Tinh mang-Suc khoe-Danh du-Nhan pham Binh luan khoa hoc bo luat hinh su – Tap 2 Toi xam pham So huu Binh luan khoa hoc bo luat hinh su – Tap 3 Toi Tu do dan chu Hon nhan gia dinh Binh luan khoa hoc bo luat hinh su – Tap 4 Toi pham ve Ma tuy Binh luan khoa hoc bo luat hinh su – Tap 5 Toi pham ve Chuc vu Binh luan khoa hoc bo luat hinh su – Tap 6 Trat tu quan ly kinh te Binh luan khoa hoc bo luat hinh su – Tap 7 An toan giao thong Binh luan khoa hoc bo luat hinh su – Tap 8 Trat tu quan ly hanh chinh – Moi truong Binh luan khoa hoc bo luat hinh su – Tap 9 An toan cong cong – Trat tu cong cong Binh luan khoa hoc bo luat hinh su – Tap 10 Hoat dong tu phap Các tìm kiếm liên quan đến download bình luận khoa học bộ luật hình sự 1999, bình luận khoa học bộ luật hình sự năm 1999 phần chung, download bình luận khoa học bộ luật hình sự 2017, bình luận khoa học bộ luật hình sự đinh văn quế tập 1, bình luận khoa học bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, bình luận khoa học bộ luật hình sự tập 1, bình luận khoa học bộ luật hình sự tập 2, bình luận khoa học bộ luật tố tụng hình sự 2015, bình luận khoa học bộ luật hình sự năm 2009, bình luận khoa học bộ luật hình sự pdf
bình luận khoa học bộ luật hình sự 1999