Thực trạng ngành logictics ở Việt Nam: A. Theo viện nghiên cứu của Viện Nomura (Nhật Bản), các doanh nghiệp Việt Nam chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu của thị trường dịch vụ logictics B. Giá cả logistics Việt Nam tương đối rẻ so với một số nước khác, nhưng chất lượng dịch vụ chưa cao và phát triển bền vững
Phân tích thực trạng kinh doanh dịch vụ logistics. Link download: Google Drive. Những nhân tố tác động đến hoạt động logistics ở Việt Nam. EBook Logistics Tiếng Anh 36; EBook Logistics Tiếng Việt 8; Giáo trình học Logistics 9;
Thực trạng của việc nói tiếng Anh tại Việt Nam ngày nay Tiếng Anh đã trở thành một ngôn ngữ giao tiếp quan trọng và bắt buộc ở Việt Nam kể từ khi chúng ta tiến hành mở cửa ra thế giới vào năm 1986. Nhiều người nước ngoài nói tiếng Anh từ khắp châu Á, Úc, Mỹ và châu Âu bắt đầu đầu tư vào Việt Nam.
Nghề lạ ở Việt Nam: Nuôi con ăn rau rừng, uống nước lã, bán 400.000 đồng/kg thu lãi hàng trăm triệu 400.000 đồng/kg thịt móc hàm và luôn trong tình trạng "cháy" hàng. Mỗi tháng anh Hiên có thể xuất bán vài chục cho đến hàng trăm con hươu lấy thịt, trừ đi chi phí đầu
Trả lời (1) Hiện trạng rừng: + Toàn châu lục có khoảng 39,7% tổng diện tích đất có rừng bao phủ. + Biến đổi khí hậu và nhu cầu gỗ tăng cao ở nhiều quốc gia => suy giảm diện tích rừng tự nhiên. bởi Thanh Thanh 08/08/2022. Like (0) Báo cáo sai phạm. Cách tích điểm HP. Nếu
S22s. Trước khi đi vào chi tiết, người viết phải thừa nhận rằng ban đầu đã có cảm giác hơi rối khi đọc nghiên cứu “English in Vietnam” Anh ngữ tại Việt Nam. Tran Phuong Minh, tác giả chính của nghiên cứu, đã dành một thời lượng đáng kể ở phần mở đầu để giới thiệu Việt Nam và lịch sử ngàn năm chống Bắc thuộc của đất nước. Tác giả thậm chí còn đề cập cụ thể cả cuộc chiến giành độc lập đầu tiên của Việt Nam khi Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán. Đó đều là những thông tin có phần khá… xa lạ cho một nghiên cứu về Anh ngữ tại Việt Nam. Song khi nhìn thấy tấm bản đồ trong đó ghi nhận đầy đủ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, người viết nhận ra mục tiêu lớn hơn hay ở góc độ nào đó là cao cả hơn của phần mở đầu. Tác giả có lẽ muốn dùng cơ hội đăng tải nghiên cứu của mình để phản kháng lại những bản đồ “đường lưỡi bò” được các học giả Trung Quốc tuyên truyền tràn lan rầm rộ. Chỉ tính riêng điểm này, chưa bàn đến nội dung của nghiên cứu, người viết đã vô cùng trân trọng tinh thần của tác giả Minh. Tuy nhiên, không phải không có sự kết nối giữa các thảo luận trên với sự tồn tại của tiếng Anh ở Việt Nam đương đại. Tiếng Trung từng là thứ ngôn ngữ tinh hoa thống trị hệ thống học thuật, quản trị hành chính và văn thơ Việt Nam suốt một ngàn năm. Vậy vai trò của tiếng Anh là gì, và nó bắt rễ tại Việt Nam như thế nào hiện nay? Anh ngữ và các ngoại ngữ có ảnh hưởng trước đó tại Việt Nam Nghiên cứu bắt đầu với việc hệ thống hóa các ngoại ngữ trong chiều dài lịch sử Việt Nam. Theo phân tích của Minh, các ngoại ngữ được sử dụng phổ biến tại Việt Nam từ trước đến nay đều không nằm ngoài ảnh hưởng của một thế lực ngoại bang thống trị hoàn toàn đất nước. Tiếng Hán là kết quả của hàng ngàn năm người phương Bắc thống trị Việt Nam về mặt quân sự, tư tưởng và văn hóa. Nhưng nó cũng nhanh chóng bị thay thế ngay khi giới tinh hoa Việt Nam có thời gian phát triển riêng ngôn ngữ của mình tiếng Nôm và tiếp cận với các loại ngôn ngữ khác, giúp họ thoát được cái rễ văn hóa Trung Hoa không mong muốn. Một ông đồ viết thư pháp tiếng Hán tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội. Ảnh Ngọc Thắng/ Thanh Niên. Tiếng Pháp, giống như thế, tồn tại chủ yếu nhờ vào sự áp đặt của chính quyền thực dân, và luôn bị đặt vào tình thế phải cạnh tranh với thứ ngôn ngữ Latin mà chính các nhà truyền giáo của họ khởi dựng. Ngay sau năm 1954, tiếng Pháp nhanh chóng mất đi sự hấp dẫn của mình. Tương tự, tại miền Bắc từ năm 1954 cho đến sau năm 1975, giáo dục tiếng Trung và tiếng Nga được ưu ái do hai quốc gia anh cả này viện trợ dồi dào cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong suốt và sau chiến tranh. Nhưng khi các khó khăn kinh tế giai đoạn Chiến tranh lạnh lộ rõ, các quốc gia xã hội chủ nghĩa buộc phải thân ai nấy lo, cả tiếng Nga lẫn tiếng Trung đều “rớt đài” khỏi đấu trường ngoại ngữ Việt Nam. Tiếng Anh, với tư cách là ngôn ngữ kinh tế toàn cầu, là thứ ngôn ngữ bắt rễ tại quốc gia chúng ta tự nhiên hơn cả, theo cách tiếp cận của tác giả. Thú vị hơn, khác với các loại ngôn ngữ trước đó du nhập vào Việt Nam theo con đường “chính chủ”, tiếng Anh đi cùng các nhà đầu tư Đài Loan, Singapore, Hong Kong và Liên minh châu Âu vào Việt Nam, với tư cách là “lingua franca” ngôn ngữ phổ thông thứ hai của những nhóm này. Các bậc phụ huynh Việt Nam, kỳ vọng rằng con em mình có chỗ đứng trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, là những người đầu tiên khởi động phong trào học tiếng Anh tại Việt Nam. Tác giả ghi nhận, phải đến năm 1993, Hội đồng Anh British Council, nhánh văn hóa của Đại sứ quán Vương quốc Anh tại Việt Nam, mới bắt đầu chương trình English Language Training Đào tạo tiếng Anh cho các nhân viên công quyền tại Việt Nam. Và đến tận năm 2002, các chương trình đào tạo tiếng Anh chính thức, “chính chủ” của người Anh mới được ra mắt công chúng. Tương tự, “nhà truyền bá” tiếng Anh quan trọng khác là Hoa Kỳ cũng rất chậm chân trong cuộc chơi. American Center Trung tâm Hoa Kỳ ở cả hai thành phố lớn Bắc và Nam của đất nước có vai trò khá quan trọng trong giao lưu và phổ biến văn hóa Mỹ, nhưng có vẻ không năng động lắm trong các hoạt động phổ biến ngôn ngữ Anh. Phải đến tận năm 2016, Peace Corp đã được Luật Khoa đề cập ở đây mới được giới thiệu và hoạt động tại Việt Nam nhân sự kiện chuyến thăm chính thức của Tổng thống Obama. Tuy nhiên, Peace Corp tập trung vào các hoạt động giao lưu văn hóa – khoa học – xã hội nhiều hơn là phổ biến ngôn ngữ và giới thiệu những biện pháp quy chuẩn hóa chúng, dù họ có các chương trình giảng dạy tiếng Anh cho trẻ em. Đào tạo Anh ngữ tại Việt Nam vừa thiếu định hướng, vừa thiếu đa dạng? Tiêu đề phụ là của người viết tự đặt và không chắc tác giả có đồng ý với kiểu giật tiêu đề này hay không. Tuy nhiên, với các thông tin được cung cấp trong nghiên cứu, có nhiều lý do để cảm thấy thất vọng về tình trạng đào tạo thứ ngôn ngữ toàn cầu này suốt 30 năm qua. Trước tiên, dù nguồn gốc du nhập Anh ngữ của Việt Nam rất đa dạng với sự xuất hiện của Anh ngữ pha trộn phương ngữ Singapore, Hong Kong, Đài Loan hay châu Âu, chúng gần như không có biểu hiện hay ảnh hưởng gì đến việc đa dạng hóa phương pháp đào tạo, ngữ âm hay từ vựng tiếng Anh tại Việt Nam. Mặc khác, cân nhắc mô hình đào tạo tiếng Anh của Việt Nam, hiệu quả có thể cho là gần như bằng không. Chương trình học tiếng Anh liên kết tại một trường tiểu học ở Hà Nội. Ảnh Thu Anh/ Kinh Tế Đô Thị. Các nghiên cứu của tác giả Minh vào bên trong hệ thống đào tạo cho thấy ngoại ngữ, mà đặc biệt là tiếng Anh, đã được giới thiệu và trở thành một môn học bắt buộc của chương trình đào tạo phổ thông từ năm lớp ba. Để tốt nghiệp cấp hai, các học sinh lớp chín đều phải trải qua kỳ thi quốc gia mà trong đó tiếng Anh chiếm 90% lựa chọn ngoại ngữ của học sinh Việt Nam là một môn thi bắt buộc. Tương tự, kỳ thi trung học phổ thông quốc gia cũng là nơi mà các học sinh buộc phải vượt qua môn tiếng Anh. Tuy nhiên, gần 12 năm đào tạo Anh ngữ dường như chỉ là “cưỡi ngựa xem hoa”, không có bất kỳ tác động nào đáng kể lên năng lực tiếng Anh của học sinh sinh viên. Tác giả Minh dẫn chứng, vào năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định 1400/QD-TTg nhằm phê duyệt Chương trình Ngoại ngữ Quốc gia hướng tới mục tiêu 2020 National Foreign Language Program – NFLP 2020. Trong đó, ngân sách lên đến 500 triệu USD được sử dụng nhằm hướng đến kết quả là tất cả học sinh rời hệ thống giáo dục phổ thông đều có một kiến thức tốt về Anh ngữ trong lý thuyết lẫn thực hành. Tuy nhiên, hơn 85% nguồn tài chính trên được dùng để… “đào tạo lại” các giảng viên Anh ngữ trong hệ thống giáo dục phổ thông vốn bị cho là có năng lực dưới chuẩn trung bình. Trong khi đó, các nỗ lực xem xét lại chương trình đào tạo, quy chuẩn hóa và đa dạng hóa phương pháp giảng dạy ngoại ngữ, tăng cường kết hợp… lại nhận được rất ít sự chú ý. Quan trọng hơn, việc áp đặt 400 giờ đào tạo nâng cao cho các giáo viên Anh ngữ, vốn vẫn phải song song hoàn thành các nghĩa vụ giảng dạy thông thường, càng khiến cho nỗ lực chấn chỉnh chương trình đào tạo ngoại ngữ tại Việt Nam không đạt được hiệu quả gì đáng kể. Như dự đoán, trong năm 2013, các bài kiểm tra năng lực cho thấy vẫn có tới giáo viên Anh ngữ dưới chuẩn yêu cầu. Tình hình không hề thay đổi trong bài kiểm tra hai năm sau đó. Đến năm 2018, theo các đánh giá khách quan từ những học giả Việt Nam, NFLP 2020 chính thức phá sản. Chính phủ Việt Nam hiện nay đã gia hạn mục tiêu từ năm 2020 sang năm 2025. Tương tác và thái độ đối với Anh ngữ tại Việt Nam Một điểm trừ của nghiên cứu theo người viết, là tác giả chỉ dừng lại ở mức độ quan sát và cảm nhận, hơn là có một phương pháp nghiên cứu sáng tạo và hiệu quả hơn để đánh giá việc sử dụng Anh ngữ trong các hoạt động đời sống thường ngày tại Việt Nam. Tuy nhiên, những đánh giá – tổng hợp của Minh cũng đáng xem xét và cân nhắc về thực trạng áp dụng Anh ngữ tại Việt Nam. Các bạn trẻ tại Việt Nam ở các thành phố lớn chủ động giao tiếp tiếng Anh với người nước ngoài. Ảnh Thanh Niên. Ví dụ, Minh cảm thấy rằng giới trẻ Việt Nam tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh đã đủ mức độ thông thạo để vượt qua các cuộc trò chuyện với du khách nước ngoài liên quan đến hoạt động mua bán lẻ và dịch vụ. Ngoài ra, tiếng Anh cũng được xem là mang lại cho người sử dụng địa vị xã hội cao hơn. Vì vậy, thanh thiếu niên Việt Nam thường chuyển đổi qua lại giữa việc sử dụng tiếng Anh và tiếng Việt trên mạng xã hội. Liên quan đến vốn từ có gốc Anh ngữ, từ giai đoạn trước 1975, “mít-tinh” meeting, “ti-vi” TV hay “top” top đều đã được sử dụng như một phần ngôn ngữ bản địa. Cho đến nay, nghiên cứu chỉ ra phải có đến gần 800 từ tiếng Anh xuất hiện thường xuyên trên báo chí địa phương. “Internet”, “hot boy/girl”, “shop”, “fan”, “fast food”… phổ biến đến mức chúng hoàn toàn thay thế các từ tiếng Việt tương ứng. Tuy nhiên, thực trạng hiện tại cho thấy mô hình đào tạo không hiệu quả, việc sử dụng Anh ngữ chưa rộng rãi mà theo người viết có thể dùng cụm “chưa được bình dân hóa”. Ngoài ra, tư duy ưa thích sử dụng tiếng Anh “chính chủ”, “cao cấp” dẫn đến việc người Việt Nam kể cả các giáo viên rất khó tiếp cận tiếng Anh như ngôn ngữ đại chúng thứ hai English as Lingua Franca – ELF. Rất nhiều người Việt chưa chấp nhận sự khác biệt về phương ngữ, ngữ âm, từ vựng hay văn hóa tiếng Anh nằm ngoài hai vùng “rốn” là Anh hay Hoa Kỳ. Thay vào đó, các giáo viên gò học sinh vào việc phát âm đúng từng câu chữ theo chuẩn Anh hoặc chuẩn Mỹ, trong khi bản thân các học sinh cũng khinh thường các phiên bản tiếng Anh “không chuẩn”. Việc giới thiệu các phiên bản khác của tiếng Anh như Singlish tiếng Anh của người Singapore hay Indian-English tiếng Anh của người Ấn Độ… đều được xem là những việc không nên, có thể làm hỏng nền tảng ngôn ngữ và làm “ô nhiễm” môi trường đào tạo Anh ngữ. Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, định kiến này dẫn đến cách hiểu sai về tiếng Anh, không chấp nhận sự thật rằng nó là một ngôn ngữ toàn cầu với vô số biến thể khác nhau. Đây là một trong những rào cản của việc phổ biến Anh ngữ và gắn kết nó với văn hóa đại chúng Việt Nam.
Thực trạng là gì? Thực trạng tiếng Anh là gì? Tất cả những những băn khoăn này sẽ được TBT Việt Nam làm rõ qua nội dung bài viết sau đây. Mời Quý vị theo dõi Thực trạng là gì? Thực trạng là những phản ánh đúng tình trạng thực tế, trạng thái đã, đang xảy ra của sự vật, sự việc, con người tại một khoảng thời gian và không gian nhất định trong thực tế. Đang xem Thực trạng trong tiếng anh là gì Thông thường khi nhắc đến thực trạng người ta hay nói đến những điều không tốt, ám chỉ những điều tiêu cực nhiều hơn so với tích cực. Ví dụ + Thực trạng quan liêu, tham nhũng trong những năm gần đây của Việt nam xảy ra rất nhiều. + Vấn đề ô nhiễm môi trường hiện đang là thực trạng dẫn đến việc bầu không khí không còn trong lành như trước. Thực trạng tiếng Anh là gì? Thực trạng tiếng Anh là Reality/ real situation/ real state of affairs. Xem thêm Cost Per Lead Là Gì ? Vai Trò Của Cpl Hiện Nay Ra Sao? Cost Per Lead Ngoài ra thực trạng còn được dịch sang tiếng Anh như sau Reality is a true reflection of the actual, actual, happening state of things, events and people at a given time and space in reality. Một số từ tương ứng với thực trạng tiếng Anh là gì? Trong hoạt động giao tiếp hàng ngày thì nhiều người thay vì sử dụng cụm từ thực trạng tiếng Anh thì mọi người có thể sử dụng các từ cũng có nghĩa tương ứng, liên quan khi nhắc đến thực trạng như + Condition/ situation/ state/ status Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là tình trạng + Actual/ reality/ fact Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là thực tế + Situation/ juncture Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là tình hình + Nowadays Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Hiện nay + Status quo Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Hiện trạng + Truth Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Sự thật + State Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là trạng thái + Actually Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là thực ra. Ví dụ đoạn văn có sử dụng từ thực trạng tiếng Anh viết như thế nào? Dưới đây sẽ là một số ví dụ về các đoạn văn có sử dụng từ thực trạng tiếng Anh để mọi người tham khảo như; Ví dụ 1 At middle and high schools, there is an alarming risk that the Ministry of Education must take timely measures to overcome this situation. The first is the prevalence of school violence, the situation of students gathering at school gates intercepting other students. Secondly, the situation of students riding electric bicycles in zigzag traffic without a helmet. Được dịch sang tiếng Việt như sau Tại các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông xảy ra một nguy cơ đáng báo động cần bộ giáo dục phải có biện pháp kịp thời để khắc phục thực trạng này. Thứ nhất là thực trạng phổ biến bạo lực học đường, tình trạng các học sinh tụ tập ở cổng trường chặn đánh các học sinh khác. Thứ hai thực trạng học sinh đi xe đạp điện tham gia giao thông lạng lách không đội mũ bảo hiểm. Xem thêm Patriot Là Gì – Nghĩa Của Từ Patriots Trong Tiếng Việt Ví dụ 2 Situation of environmental pollution is happening more and more, especially in big cities and provinces, concentrated in industrial parks and developed urban areas such as Hanoi, Ho Chi Minh, Binh Duong, Nha Trang … Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Thực trạng ô nhiễm môi trường xảy ra ngày càng nhiều, nhất là ở các tỉnh thành phố lớn, tập trung nhiều khu công nghiệp, đô thị phát triển như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bình Dương, Nha Trang… Ví dụ 3 Reality the complicated situation of the covit19 epidemic, every citizen needs to pay attention to protect their health by avoiding crowding in public places, wearing masks when going out and using hand washing water regularly. Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Trước thực trạng dịch bệnh covit19 diễn ra phức tạp, mỗi người dân cần chú ý tự bảo vệ sức khỏe của mình bằng việc tránh tụ tập đông người các nơi cộng cộng, thực hiện đeo khẩu trang khi ra ngoài và sử dụng nước rửa tay thường xuyên.
Đăng bởi Admin vào lúc 1121 - 28/01/2021 NGƯỜI TRÊN THẾ GIỚI NÓI TIẾNG ANH! Con số khổng lồ trên đã mô tả chính xác nhất xu thế toàn cầu hóa của của Anh ngữ! Tầm quan trọng của việc học Tiếng Anh là điều không phải bàn cãi. Và để chuẩn bị cho con em mình một hành trang vững vàng cho tương lai, rất nhiều bậc phụ huynh đã và đang chú trọng đầu tư cho các em đi học Tiếng Anh cả ở trường và tại các trung tâm. Nhưng liệu trẻ đã được học Tiếng Anh đúng cách? Và học Tiếng Anh như thế nào mới là đúng cách? Tiếng Anh và Tiếng Việt đều là ngôn ngữ. Vậy nên quy trình học Tiếng Anh cũng không khác gì so với học Tiếng Việt. Các em nhỏ cũng đều phải tuần tự trải qua các bước “NGHE” thụ động rồi bắt chước, sau đó mới có thể “NÓI” – giao tiếp, cuối cùng mới là “ĐỌC” và “VIẾT”. Tuy nhiên có một thực tế rằng trẻ em Việt Nam đang học Tiếng Anh theo một quy trình bị đảo lộn theo trình tự VIẾT – ĐỌC – NGHE – NÓI. Các em học Tiếng Anh theo kiểu dập khuôn và vô cùng nhàm chán. NGHE và NÓI hoàn toàn không được chú trọng, Các em phải cắm đầu chép từ vựng và các công thức ngữ pháp rồi nhồi hết vào đầu để đạt điểm cao cho bài thi cuối kỳ. Cách học này chắc chắn sẽ không thể giúp trẻ giao tiếp Tiếng Anh tốt, mà trái lại nó sẽ hình thành thói quen ngại giao tiếp, phát âm sai và càng lớn lên thì trẻ càng khó sửa! Rõ ràng, để giao tiếp giỏi Tiếng Anh hay bất kỳ một ngoại ngữ nào, đều phải tuân theo bản năng tiếp thu ngôn ngữ của con người. Bắt đầu là NGHE – NÓI rồi mới đến ĐỌC – VIẾT. Ngoài ra học Tiếng Anh cũng có độ tuổi “Vàng” của nó, các nhà nghiên cứu của Anh đã chứng minh bằng khảo sát thực nghiệm trên đứa trẻ và nhận thấy trẻ học ngôn ngữ thứ hai trong khoảng thời gian từ 4 đến trước 15 tuổi có nhiều khả năng giao tiếp trôi chảy như người bản xứ hơn vì ở độ tuổi này trẻ có khả năng bắt chước rất nhanh, bắt đầu hình thành tư duy và có rất nhiều thời gian cho việc luyện tập giao tiếp.
Giáo dụcHọc tiếng Anh Thứ sáu, 28/10/2016, 1230 GMT+7 "Thực trạng học tiếng Anh ở Việt Nam hiện nay rối như bòng bong. Sách giáo khoa lỗi thời, trình độ giáo viên và cách thức thi cử dựa trên đọc viết là 3 vấn đề lớn cần giải quyết", thầy giáo tiếng Anh Nguyễn Xuân Quang nêu quan điểm. Nếu cách đây 20-30 năm, thứ duy nhất chúng ta nhập khẩu về để dạy tiếng Anh là sách và một số băng đĩa, thì giờ đây trẻ em được tiếp xúc với báo đài, Internet, TV... hoàn toàn bằng tiếng Anh. Cách dạy và học tiếng Anh cần được đổi mới. Bố tôi dành cả đời để đi dạy tiếng Anh. Tôi cũng có thể được coi là "nòi" tiếng Anh khi 6 tuổi đã bập bẹ "a book, a ball, a box, a cup", một phần nhờ may mắn khi bố tôi là một trong những người đầu tiên sau chiến tranh được cử đi học tại một nước tư bản. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, có được cuốn sách tiếng Anh cho ra hồn là "khá giả" lắm rồi. Chương trình học hồi đó dựa chủ yếu vào ngữ pháp cũng là dễ hiểu. Vì không dạy ngữ pháp thì có gì mà dạy, bản thân giáo viên tiếng Anh cũng không thể tiếp xúc với cái gọi là tiếng Anh chuẩn. Hệ thống đào tạo tiếng Anh của Việt Nam, từ thời điểm đó, hoặc thậm chí vài chục năm trước đó, dựa chủ yếu vào học ngữ pháp, có lẽ giống như mục tiêu "xóa mù" tiếng Anh, hơn là để sử dụng và hội nhập. Mọi thứ đang thay đổi chóng mặt. Nhưng dường như việc dạy tiếng Anh trong giáo dục Việt Nam đang lễ mễ chạy đằng sau mà vẫn bị hụt hơi. Không nói giáo viên tiểu học, bản thân giảng viên tiếng Anh đại học cũng ít người có khả năng phát âm chuẩn và hay. Ngay ở những trường danh tiếng có lượng sinh viên đạt IELTS hay 100 TOEFL iBT trở lên tương đối phổ biến, chất lượng giáo viên tiếng Anh cũng luôn là dấu hỏi lớn. Nếu chuẩn hóa chất lượng giáo viên thông qua điểm TOEFL iBT hoặc IELTS, tôi tin chắc số lượng không nhỏ giáo viên đại học có điểm thấp, thậm chí rất thấp. Tất nhiên, một tỷ lệ không nhỏ giáo viên cũng sẽ có điểm cao và rất cao. Dạy và học tiếng Anh cần có sự đột phá. Do đội ngũ giáo viên tiếng Anh thiếu cả về chất và lượng, việc đổi mới chương trình là vấn đề nan giải với hệ thống đào tạo Việt Nam. Lý do là giáo viên không đủ chất lượng thì chương trình tốt cũng khó có thể vận hành hiệu quả. Thậm chí, nếu chương trình giáo dục có thay đổi theo hướng đào tạo phát âm thay vì ngữ pháp đi chăng nữa, thì phần không nhỏ các thầy cô cũng không đủ trình độ và bản lĩnh để đánh giá chính xác học viên. Thực tế là với ngôn ngữ, càng bắt đầu sớm thì khả năng hấp thụ càng tốt. Ở cùng điểm xuất phát, học sinh sẽ học tiếng Anh nhanh hơn giáo viên. Liệu các thầy cô có bối rối nếu học viên còn phát âm... chuẩn hơn cô? Một chi tiết nhỏ mà không nhỏ, đó là rất ít giáo viên ở Việt Nam chịu thừa nhận mình kém hơn học sinh/sinh viên của mình, ít ra ở lĩnh vực họ giảng dạy. Một rào cản nữa cho việc chuyển hướng đào tạo tiếng Anh, đó là đánh giá chất lượng học sinh. Với lượng học sinh khổng lồ như hiện nay, việc giảng dạy chú trọng phát âm và giao tiếp thực tiễn thay vì ngữ pháp sẽ đặt ra thử thách lớn cho toàn hệ thống đánh giá bằng cách nào. Với nguồn lực mỏng như hiện tại, số lượng giáo viên đủ chuyên môn, năng lực để đánh giá khả năng phát âm/giao tiếp của học viên nắm phần thiểu số tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị, việc đánh giá học viên qua khả năng phát âm/giao tiếp là khó khăn hơn rất nhiều. Hệ thống của chúng ta ở thì hiện tại phù hợp hơn cho việc ra đề trên giấy, chấm trên giấy. Với đáp án có sẵn, thậm chí một người chẳng biết gì về tiếng Anh cũng có thể chấm điểm sinh viên/học sinh thông qua bài trắc nghiệm tiếng Anh... Như thế dễ hơn rất nhiều. Trước thực tế trên, thay đổi là tất yếu. Bởi nếu hệ thống giáo dục không thay đổi, thị trường sẽ tự làm việc đó. Học sinh, sinh viên sẽ lãng phí rất nhiều thời gian học tiếng Anh ở nhà trường, nhưng không sử dụng được. Trong khi đó, một bộ phận lớn phải ra ngoài để học lại tiếng Anh nhằm thích nghi với yêu cầu của thị trường. Đây là sự lãng phí nguồn lực vô cùng lớn của xã hội và cần được thay đổi. Thay đổi đầu tiên, thiết nghĩ, phải bắt đầu từ bản thân giáo viên tiếng Anh. Nếu họ phát âm chuẩn, giao tiếp tốt, họ sẽ đào tạo được học sinh, sinh viên phát âm tốt và giao tiếp được. Để làm được điều này, cần chặt chẽ hơn nữa về yêu cầu chuẩn giáo viên tiếng Anh ít nhất tương đương 90 TOEFL iBT hoặc IELTS, đi kèm với lộ trình và hỗ trợ cần thiết từ phía nhà trường và Bộ Giáo dục. Sau đó, việc giảng dạy tiếng Anh với nền tảng là phát âm nên được thực hiện từng bước ở các trường điểm tại các khu vực thành phố lớn, sau đó lan tỏa ra toàn hệ thống, phối hợp cùng với việc nâng cao chất lượng giáo viên tại các trường đại học, trung học và tiểu học. Tiếp theo, dựa trên các giáo trình tại các trường trọng điểm, kết hợp với các trung tâm tiếng Anh có kinh nghiệm tại các thành phố lớn, Bộ Giáo dục có thể đưa ra chương trình khung, lộ trình học và phương pháp đánh giá, sau đó thực hiện thí điểm tại các thành phố lớn. Nguyễn Xuân Quang
thực trạng tiếng anh ở việt nam